Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 74:
Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ – Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt [[chết]]. Cháu nội là [[Nguyên Thành Tông]] lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
 
== Số lượng quân Mông Nguyên ==
Sử sách Việt Nam và Trung Quốc nêu số quân Nguyên không thống nhất. Nhưng tổng thể qua ba chiến dịch lớn cùng với những cuộc giao tranh lẻ tẻ thì tổng số quân đội nhà Nguyên-Mông đặt chân đến Đại Việt là rất đông đảo, với số lượng tổng cộng tối đa ước tính có thể lên đến hơn 80 vạn người, điều này phản ánh quy mô của cuộc chiến mà nhà Nguyên đã nỗ lực huy động một lực lượng lớn tham chiến trên chiến trường Đại Việt. Câu khẩu ngữ "''đông như quân Nguyên''" của [[người Việt]] đã phản ánh thực tế đó.
 
Lần đầu số lượng quân Mông Nguyên không lớn lắm; sau này các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng số quân Mông Cổ năm 1257-1288 khoảng 3 vạn<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 77</ref>. Nhà sử học [[Iran|Ba Tư]] là [[Said ud Zin]] cho biết số kỵ binh Mông Cổ khi tấn công nước Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam) có 3 vạn, nhưng sau cuộc tấn công Đại Việt, khi về đến Ngạc châu gặp [[Hốt Tất Liệt]] thì số quânkị binh Mông Cổ chỉ còn lại 5.000 người<ref>Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, sách đã dẫn, tr 61</ref>. Trừ đi tổn thất khi đánh Đại Lý thì số kỵ binh Mông Cổ khi tấn công Đại Việt vào khoảng 20.000 - 25.000. Ngoài quân Mông Cổ thì còn có khoảng 2 vạn quân người [[Đại Lý]] được Mông Cô trưng dụng để cùng tham gia đánh Đại Việt, song không rõ tổn thất bao nhiêu. Như vậy, tổng cộng lần 1, Mông Cổ có khoảng 40.000 – 50.000 quân, trong đó khoảng 2/3 tử trận hoặc bị bắt sống do bị truy kích bởi quân đội Đại Việt.
 
Lần thứ hai, [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]] chép quân Nguyên có 50 vạn và khi rút về nước chỉ còn 5 vạn sống sót. Nguyên Sử không chép cụ thể số lượng quân Nguyên, chỉ ghi là mấy chục vạn nếu tính luôn cả dân phu là những người tham gia hỗ trợ quân viễn chinh (giúp xây dựng, chở lương, nuôi ngựa...). Con số 30 – 50 vạn quân chính quy được các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng phù hợp. Tuy nhiên, về số trở về nước, chắc chắn nhiều hơn 5 vạn, vì từ tháng 6 âm lịch năm 1285, Thoát Hoan rút chạy về, tới tháng 8 đã được lệnh chuẩn bị sang lần nữa (sau đó [[Thoát Hoan]] được cấp thêm gần 10 vạn quân bổ sung). Như vậy số quân Nguyên còn lại cũng tương đối nhiều, gần với số cần thiết mang đi viễn chinh lần nữa<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 206</ref>. Theo một số tác giả thì quân Đại Việt lần này có 30 vạn người, tính cả quân chính quy lẫn quân địa phương tại các làng xã.<ref>Tập San Sử Địa-Tập 1 trang 27 Sài Gòn 1966</ref>