Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Ottoman”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Đã lùi lại sửa đổi của Atdao (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 123.16.194.23
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 14:
|capital = [[Söğüt]] (1299-1326),<br />[[Bursa]] (1326-1365),<br />[[Edirne]] (1365-1453),<br />[[Istanbul|Constantinople]] (1453-1922)
|common_languages = {{plainlist|
* [[Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ|Tiếng Thổ Ottoman]] (chính thức)
* [[Tiếng Ba Tư]]
* Các ngôn[[Ngôn ngữ bảncủa địaĐế quốc Ottoman|nhiều ngôn ngữ khác]]}}
|government_type = [[Quân chủ chuyên chế]]
|title_leader = [[Nhà Ottoman|Sultan]]
|leader1 = [[Osman I]]Ghazi
|year_leader1 = 1281-1326
|leader2 = [[Mehmet VI]]
|year_leader2 = 1918-22 (cuối cùng)
|title_deputy = [[Danh sách Đại Vizia của đế quốc Ottoman|Đại Vizia]]
|deputy1 = [[Alaeddin Pasha]]
|year_deputy1 = 1302-31 (đầu tiên)
|deputy2 = [[Ahmed Tevfik]] Pasha
|year_deputy2 = 1920-22 (cuối cùng)
|life_span = 1299–1922/1923
Dòng 32:
|year_end = 1923
|date_end = 24 tháng 7
|event_start = [[Thời kỳtrỗi dậy của Đế quốc Ottoman|Được kiến lập]]
|event_end = [[Hiệp định Lausanne]]
|event1 = [[Thời kỳ đứt quãng của Đế quốc Ottoman|Đứt quãng]]
|date_event1 = 1402-1413
|event2 = [[Thời đại lập hiến đầu tiên (Đế quốc Ottoman)|Hiến pháp đầu tiên]]
|date_event2 = 1876-1878
|event3 = [[Thời đại lập hiến thứ hai (Đế quốc Ottoman)|Hiến pháp thứ hai]]
|date_event3 = 1908-1918
|event4 = Sultan [[Mehmed VI]] thoái vị
|date_event4 = 17 tháng 1 năm 1922
|p1 = Triều đại Seljuk của Rum
Dòng 102:
|flag_s1=State Flag of Serbia (1882-1918).svg
}}
'''Đế quốc Ottoman''' hay '''Đế quốc Osman''' ([[tiếng Thổ Nhĩ Kỳ|tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman]]: دولتِ عَليه عُثمانيه ''Devlet-i Âliye-i Osmâniyye'', dịch nghĩa "Nhà nước Ottoman Tối cao"; [[Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ|tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại]]: ''Osmanlı İmparatorluğu''), còncũng thỉnh thoảng được gọi là '''Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ''', là một quốc gia của ngườihiệu [[Thổ Nhĩ Kỳ]] đã tồn tại từ năm [[1299]] đến [[1923]]. Thời đỉnh cao quyền lực ở [[thế kỷ XVI]] và [[thế kỷ XVII]], đế quốc Ottoman kiểm soátcác lãnh thổ rộngcủa 5,6Đế triệuquốc km2,Ottoman trảigồm dàicác từvùng [[Tiểu Á]] đến tận, [[KavkazTrung Đông]], nhiều phần lớn [[Bắc Phi]], và đa phần đông nam [[Trungchâu ĐôngÂu]] đến tận [[bán đảo BalkanKavkaz]]. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện tích khoảng 5,6 triệu [[kilômét vuông|km²]],<ref>{{Chú thích web|work=Regnal Chronologies|url=http://www.hostkingdom.net/earthrul.html|tiêu đề=To Rule the Earth...|ngày truy cập = ngày 6 tháng 4 năm 2006}}</ref> Nhưngnhưng vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc này rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc [[du mục]] cai quản, nơi thừa nhận [[quyền bảo hộchủ]] của đế quốc này. được vậycông đếnhận. Đế quốc Ottoman đãtương tiếptác thuvới cả văn hóa [[phương Đông]] và [[phương Tây]] trong suốt lịch sử 624 năm tồncủa tại.
 
== Lịch sử ==
=== Nguồn gốc ===
TổCác [[tổ tiên]] của [[nhàvương triều OsmanOttoman]] thuộclà một phần của các bộ lạc [[Đột Quyết|người Tây Đột Quyết]] (''Gokturk'') miền tây đã di cư từ [[Trung Á]] đếnbắt [[Bađầu Tư]]từ khoảng giữa [[thế kỷ X]]. TrongĐịnh cư tại Ba Tư trong thời kỳ này, họ[[Nhà đãSeljuk|những lậpngười raThổ [[nhàNhĩ SeljukKỳ]] bắt đầu mở rộng về phía tây tới [[Armenia]] và [[Tiểu Á]] vào đầu [[thế kỷ XI]]. Những đợt di chuyển này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa họ với [[Đế quốc Byzantine]], từng là một đếquyền chếlực hùngchính mạnhtrị nổi trội tại bờkhu vực miền đông [[Địa Trung Hải]] kể từ thời kỳ [[La Mã]], nhưng vào thế kỷ XI bắt đầu suymột thoáithời vàokỳ thếsuy kỷthoái XIdài. Người Thổ Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại Tiểu Á sau chiến thắng lịch sử tại [[trận Manzikert]] năm [[1071]], để thành lập [[Đế quốc Seljuk|Nhànhà Seljuk ở Tiểu Á]]. VàoSau cuốisự thếxâm kỷlăng XII,của họngười lại[[Mông nàyCổ]] bị thay thế bởitới [[đế quốcTiểu KhwarezmÁ]] trong thế kỷ XIII, còntriều đại này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều tiểu vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ, tức các ''[[beylik]]''.
 
Dưới [[quyền bá chủ]] của [[nhà Seljuk Tiểu Á]], bộ lạc [[Kai|Kayı]] của [[Cácngười dânThổ tộcNhĩ Kỳ TurkOghuz|người Thổ Oğuz]] đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành vương quốc Ottoman tại miền tây AnatoliaTiểu Á. Thủ lĩnh người Kayı là [[Ertuğrul Gazi]] đã chiếmnhận được một số vùng đất từnày đếsau chếlưng Seljuk trong một cuộc xungva độtchạm biên giới nhỏ. Hệ thống [[Seljuk]] tạo cơ hội đểcho sự bảo vệ vương quốc từ bên ngoài, đồng thờicũng tạocho điềuphép kiện để phát triển cấu trúc nội tại của nó. Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự riêngcủa mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc lắngkhác giềngsống tại miền tây Tiểu Á, nhiều phầntrong số lớnđó là những người theo [[Ki-tô giáo]]. Sau sự tan rã của nhà Khwarezm bởi các cuộc xâm lăng của [[Đế quốc Mông Cổ|người Mông Cổ]] vào [[thế kỷ XIII]]Seljuk, Kayı trở thành chư hầu của [[Hãn quốc Y Nhi]] của Mông Cổ.
 
=== Khởi đầu (1299-1326) ===
{{chính|Thời khởi đầu của Đế quốc Ottoman}}
Tên gọi ''Ottoman'' có nguồn gốc từ [[Osman BeyI]] (vềcòn saugọi là ''Osman IBey'') ([[tiếng Ả Rập]]: ''Uthman'') <ref>Tên '''Ottoman''' có lẽ gọi trại từ tiếng Ả Rập, sang tiếng Ý, rồi sang tiếng Pháp đến tiếng Anh, theo tự điển Merriem Webster [http://www.merriam-webster.com/dictionary/ottoman] và tự điển Etymonline [http://www.etymonline.com/index.php?search=osmanli&searchmode=none].</ref> (1299-1326), con trai của Ertuğrul Gazi, người đã tuyên bố sự độc lập chocủa nhà nước Ottoman năm [[1299]]. Trong khi các vương quốc khác của người Thổ Nhĩ Kỳ đangcòn chaophải đảobận tâm với các mâu thuẫn nội chiếnbộ, Osman đã có thể mở rộng biên giới của khu định cư Ottoman ápvề sátphía rìa đông của [[Đế quốc Byzantine]]. Ông đã dời đô tới [[Bursa, Thổ Nhĩ Kỳ|Bursa]], định hình cho sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc. OsmanNgười mangta gọi ông với tên hiệu "Kara" bởi vì sự can đảm của ông, Osman luônđã được ca ngợi là một ông vua hùng mạnh và năng động một thời gian rất dài sau khi ông mất, như được thể hiện trong thành ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ "Ông/anh ta có thể tuyệt vời như Osman". Danh tiếng của ông cũng được đánh bóng trong câu chuyện thời trung[[Trung đại]] của người Thổ Nhĩ Kỳ, được biết dưới tên gọi "''giấc[[Sự thành lập của đế quốc Ottoman|Giấc mơ của Osman]]''", một sự thành lập huyền thoại trong đó chàng trai trẻ Osman là người có đầy năng lực để gâychinh dựngphục một đế quốc trongnhìn tươngthấy laitrước.
 
[[Thời kỳ]] này là sự hình thành của vương''[[Thể chế cai trị của Đế quốc Ottoman|triều đình Ottoman]]'' chính thức mà các cơ quan, tạotổ rachức thểcấu chếthành chínhra trị gần như cốkhông thay đổi lớn định trong gần 4 thế kỷ. Ngược lại với nhiều nhà nước đươngcùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của Đế quốc Ottoman đã hạncố chếgắng nềntránh sự cai trị theo kiểu quân phiệt,sự. bằngTriều việcđình cũng tạo ra một thể chế pháp lý gọi là ''millet'' (kiểu nghĩalãnh thổ "tự trị"), một thể chế hành chính mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít cộngngười động tôn giáo thiểu số có khả năng quản lý công việc nộicủa bộchính họ với một sự độc lập một cách đáng kể vớitừ bộsự máykiểm caisoát trịcủa trung ương.
 
MộtTrong thế kỷ sau khi Osman I qua đời, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng trên toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và [[Balkan]]. [[Thessaloniki]], một thành phố quan trọng của [[Venezia]] bị chiếm năm 1387, và chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại [[trận Kosovo]] năm 1389 làm cho [[Serbia]] mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược [[châu Âu]] của sultan. Tại [[trậnTrận Nicopolis]] năm 1396, được xem là cuộc [[Thập tự chinh]] cuối cùng của thời trung[[Trung cổ]], trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman. Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào [[Sự thất thủ của Constantinople|Constantinople]] đã trở thành mục tiêu tiên quyết định. Đế quốc của người Thổ đã chiếm được [[Đế quốc Byzantine|các vùng đất Byzantine]] phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã lại may mắnvẫn đứng vững nhờđược cuộckhi [[Tamerlane]] xâm lựclược [[Tiểu Á]], và bắt giam sultan [[Bayezid I]] sau [[trận Ankara]] của [[Timur]] năm 1402. Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều thấtbị thủmất năm 1402, nhưng saucác đóvùng đượcđất sultannày được [[Murad I]] chiếm lại trong giaithập đoạnniên 1430 - 1450.
 
Việc Bayezid bị bắt đẩylàm cho đất nước rơi vào loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezid,Bayezit. Cuộc chỉchiến này kết thúc khi vua [[Mehmed I]] lên ngôi và táixây dựng thiếtlại đất nước, kết thúc [[Thời đứt quãng của Đế quốc Ottoman|Thời kì đứt quãng của Đế quốc Ottoman]]. Cháu nội ông, [[Mehmed II]] đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội, và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong cuộc chiếm đóng [[Sự thất thù Constantinople|chiếm đóng]] [[Constantinople]] vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, biếnkhi thànhmới 21 tuổi. Thành phố này trở thành kinh đô mới của Đế quốc Ottoman, và Mehmed II xưng làm ''Kayser-i Rum'' (Hoàng đế La Mã). Dù vậy, ngôi Hoàng đế La Mã của sultan Ottoman không được người Hy Lạp và các nước phương Tây công nhận, bởi các [[Nga hoàng]] cũng tự phong cho mình chức vị này. Để nắm vững ngôi Hoàng đế La Mã, Mehmed II khao khát chiếm [[Rome]]Roma, bằng cáchcho quân xâm lược [[bán đảo Ý]], chiếm [[Otranto]] và [[Apulia]] ngày 28 tháng 7, 1480. Nhưng sau khi ông bị [[ám sát]] ngày 5 tháng 3, 1481, chiến dịch nàyở Ý thất bại và quân Ottoman rút lui về.
 
=== Lớn mạnh (1453-1683) ===