Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dãy núi Ural”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập_tin:Russland_topo.png|nhỏ|300x300px|Vị trí mạch núi U-ran ở Nga]]
{{Geobox|Dãy núi
[[Tập_tin:UralMountains1.png|nhỏ|596x596px|Mạch núi từ bắc đến nam chia làm 5 khúc núi Cực địa U-ran, núi Á cực địa U-ran và núi Bắc, Trung, Nam U-ran.]]
|name=Dãy núi Ural
'''Dãy núi Ural''', hoặc gọi '''mạch núi U-ran''', là đường phân giới hai châu lục [[châu Âu]] và [[châu Á]]. Phía bắc bắt đầu vịnh Baydaratskaya ở [[Biển Kara|biển Ca-ra]], phía nam cho đến khu vực [[thảo nguyên Kazakh]], dài dằng dặc 2.500 kilômét, làm trung gian giữa [[đồng bằng Đông Âu]] và [[Đồng bằng Tây Xibia|đồng bằng Tây Xi-bê-ri-a]].<ref name="brit">[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/619028/Ural-Mountains Ural Mountains], Encyclopædia Britannica on-line</ref> Mạch núi từ bắc đến nam chia làm 5 khúc núi Cực địa U-ran, núi Á cực địa U-ran và núi Bắc, Trung, Nam U-ran. Chiều cao so với mức mặt biển trung bình từ 500 đến 1.200 mét ; đỉnh núi Narodnaya cao 1.894 mét ở núi Á cực địa Ural là [[Đỉnh|đỉnh núi]] cao nhất của mạch núi U-ran. Bề ngang của mạch núi là 40 đến 150 kilômét. Khúc giữa thấp phẳng, là đường giao thông trọng yếu của hai châu lục [[châu Âu]] và [[châu Á]]. Sườn tây của mạch núi U-ran khá thoai thoải, sườn đông dốc gần như thẳng đứng. Sự phân bố tài nguyên khoáng sản và [[Động vật|động]] [[thực vật]] ở hai cạnh bên mạch núi U-ran có khác biệt rõ ràng. Mạch núi U-ran vẫn là [[Đường phân thủy|đường phân thuỷ]] của lưu vực [[Sông Volga|sông Vôn-ga]], [[Sông Ural|sông U-ran]] ở sườn tây và [[Sông Obi|sông Ô-bi]] ở sườn đông.
|image=Landscape view in Circumpolar Urals.jpg
|country=Nga
|country1=Kazakhstan
|region=Bashkortostan
|region1=tỉnh Sverdlovsk
|region2=vùng Perm
|region3=tỉnh Chelyabinsk
|region4=tỉnh Kurgan
|region5=tỉnh Orenburg
|region6=tỉnh Tyumen
|region7=vùng tự trị Khanty-Mansi
|region8=vùng tự trị Yamalo-Nenets
|region9=Tây Kazakhstan
|geology= | period=Kỷ Than Đá | orogeny=
|highest=[[Đỉnh Narodnaya]]
|highest_elevation=1895}}
'''Dãy núi Ural''' là [[dãy núi]] thuộc [[Nga|Liên bang Nga]] và [[Kazakhstan]], là ranh giới tự nhiên phân chia [[châu Á]] và [[châu Âu]]. Dãy núi Ural trải dài 2.500&nbsp;km từ [[đồng cỏ|thảo nguyên]] Kazak, chạy dọc theo biên giới phía bắc của [[Kazakhstan]] đến vùng bờ biển [[Bắc Băng Dương]]. Đỉnh cao nhất là [[núi Narodnaya]] cao 1.895 m.
{|align="right" cellspacing="0" cellpadding="0"
|[[Tập tin:Ural Mountains Map.gif|nhỏ|300px|phải|Bản đồ dãy Ural]]
|}
 
== Địa chất ==
Dãy núi tạo thành một phần của ranh giới thông thường giữa các lục địa châu Âu và châu Á. [[Đảo Vaygach]] và các đảo Novaya Zemlya tạo thành một chuỗi tiếp theo của chuỗi ở phía bắc vào Bắc Băng Dương.
Mạch núi U-ran hình thành vào [[Kỷ Than Đá|Kỉ Than đá]],<ref name="brown&echtler">{{cite book|title=Encyclopedia of Geology|author=Brown, D. and Echtler, H.|publisher=Elsevier|year=2005|isbn=978-0126363807|editor=Selley, R. C.; Cocks, L. R. M. and Plimer, I. R.|volume=Vol. 2|pages=86–95|chapter=The Urals}}</ref><ref>{{cite book|url=https://web.archive.org/web/20090731085326/http://www.geodynamics.no/guest/GeolSoc06.pdf|title=European Lithosphere Dynamics|author=Cocks, L. R. M. and Torsvik, T. H.|publisher=Geological Society of London|year=2006|isbn=978-1862392120|editor=Gee, D. G. and Stephenson, R. A.|volume=32|pages=83–95|chapter=European geography in a global context from the Vendian to the end of the Palaeozoic}}</ref><ref>{{Cite journal|last1=Puchkov|first1=V. N.|year=2009|title=The evolution of the Uralian orogen|url=https://www.researchgate.net/publication/249552596|journal=Geological Society, London, Special Publications|volume=327|pages=161–195|doi=10.1144/SP327.9}}</ref><ref>{{Cite journal|last1=Brown|first1=D.|last2=Juhlin|first2=C.|last3=Ayala|first3=C.|last4=Tryggvason|first4=A.|last5=Bea|first5=F.|last6=Alvarez-Marron|first6=J.|last7=Carbonell|first7=R.|last8=Seward|first8=D.|last9=Glasmacher|first9=U.|year=2008|title=Mountain building processes during continent–continent collision in the Uralides|url=https://www.researchgate.net/publication/236880030|journal=Earth-Science Reviews|volume=89|issue=3–4|pages=177|doi=10.1016/j.earscirev.2008.05.001|last10=Puchkov|first10=V.|last11=Perez-Estaun|first11=sexbombA.}}</ref> lúc đó [[Xibia|Xi-bê-ri-a]] ngày nay là một khối đất liền độc lập, xô đụng nhau với một phần [[Toàn Lục Địa|lục địa Siêu cấp]] lúc ấy - [[châu Âu]] ngày nay, rồi hình thành mạch núi U-ran. Đến nay chỉ có [[châu Âu]] và [[Xibia|Xi-bê-ri-a]] vẫn nối liền lẫn nhau. [[Novaya Zemlya|Đảo Tân Địa]] ở giữa [[Biển Kara|biển Ca-ra]] và [[biển Barents]] trên thật tế là sự duỗi dài của mạch núi U-ran.
 
Mạch núi U-ran mở đầu hình thành vào thời gian nhô lên mang tính kết cấu của vận động tạo núi Variscan (chừng 250 triệu năm về trước). Khoảng chừng 280 triệu năm về trước, chỗ này nhô lên một khu vực núi cao, nó lại bị [[Xói mòn|xâm chiếm ăn mòn]] biến thành đồng bằng xấp xỉ. [[Kiến tạo sơn Anpơ|Vận động tạo núi An-pơ]] đã hình thành đất đồi núi mới, rõ ràng nhất chính là sự nhô lên đất đồi núi của núi Á cực địa U-ran.
 
Sườn tây mạch núi U-ran, bên trong có [[đá trầm tích]] vào kì giữa [[Đại Cổ sinh]] khoảng chừng 350 triệu năm tạo thành nên. Mạch núi U-ran về phía tây là [[Sụt lún (địa chất)|sụt lún]] Cis-Ural, vào cuối kì [[Đại Cổ sinh]] (chừng 300 triệu năm trước) có rất nhiều vật chất bị [[Xói mòn|xâm chiếm ăn mòn]] bị [[bồi tích]] đến chỗ này ; vào năm 1988 rất nhiều địa phương ở sườn tây mạch núi đều lộ ra đất bậc thềm, dần dần xuống thấp từng bậc xuyên qua [[Sụt lún (địa chất)|sụt lún]] Cis-Ural. Sườn tây đi đến nơi có [[Karst|các-xtơ]] (khu vực [[đá vôi]] bị [[Xói mòn|xâm chiếm ăn mòn]] hoàn toàn) và [[thạch cao]], mang theo mình [[Hang|hang động]] và dòng [[suối]] dưới đất cực kì to lớn. Ở sườn đông, tầng [[đá núi lửa]] và tầng [[đá trầm tích]] thay phiên chồng chất lẫn nhau, chúng nó đều là do kì giữa [[Đại Cổ sinh]] hình thành nên.<ref name="bse3">{{cite web|url=http://slovari.yandex.ru/~%D0%BA%D0%BD%D0%B8%D0%B3%D0%B8/%D0%91%D0%A1%D0%AD/%D0%A3%D1%80%D0%B0%D0%BB%20(%D0%B3%D0%B5%D0%BE%D0%B3%D1%80%D0%B0%D1%84%D0%B8%D1%87.)/|title=Ural (geographical)|publisher=[[Great Soviet Encyclopedia]]|archive-url=https://web.archive.org/web/20140918062450/http://slovari.yandex.ru/~%D0%BA%D0%BD%D0%B8%D0%B3%D0%B8/%D0%91%D0%A1%D0%AD/%D0%A3%D1%80%D0%B0%D0%BB%20(%D0%B3%D0%B5%D0%BE%D0%B3%D1%80%D0%B0%D1%84%D0%B8%D1%87.)/|archive-date=18 September 2014|access-date=31 May 2016|url-status=dead}}</ref>
 
Các [[Đá|nham thạch]] này đã tạo thành [[Nếp lồi|nếp lồi phức]] Tagil-Magnitogorsk (là một nhóm đá vòng cung và đá máng, bản thân nó cũng hình thành thung lũng hình dạng chữ U), nó là nếp lồi phức lớn nhất trong cả mạch núi. Sườn đông của núi Trung Ural và Nam Ural cong ngoằn làm thành gò đồi chân núi kiểu đồng bằng xấp xỉ, chỗ này thông thường có sự phô bày của [[đá hoa cương]], cũng thường xuyên có đỉnh núi đơn độc hình trạng kì dị. Ở phía bắc, đồng bằng xấp xỉ bị chôn vùi dưới [[Trầm tích|vật trầm tích]] của [[Đồng bằng Tây Xibia|đồng bằng Tây Xi-bê-ri-a]] lỏng lẻo rời rạc và dễ vỡ thành hình dạng bột vụn.
 
Địa hình có quan hệ lớn với thành phần cấu tạo của [[đá]] : đồi núi cao chót vót và sống núi thấp lùn, đỉnh bằng phẳng là do [[Quartzit|đá thạch anh]], [[đá phiến]], [[Gabro|đá huy trường]] tạo thành, các [[Đá|nham thạch]] này không dễ phong hoá. Đỉnh núi đơn độc rất hay thấy ; có một ít thung lũng hình dạng chữ U hướng bắc - nam, trong đó hầu như đều có thung lũng sông.<ref name="brit" /> Sườn tây của cả mạch núi, phát triển cao độ địa hình [[Karst|các-xtơ]], có rất nhiều [[Hang|hang hốc]], bồn địa và dòng suối dưới đất.
 
Tuy nhiên địa tầng [[Karst|các-xtơ]] ở sườn đông khá ít, trái lại có có các tầng nham thạch lên cao để lộ phía trên mặt đất bằng phẳng. Ở phía đông, gò đồi chân núi rộng lớn đã xuống thấp làm thành đồng bằng xấp xỉ nối liền không gián đoạn núi Trung U-ran và núi Nam U-ran.
 
Các ngọn núi nằm trong khu vực địa lý Ural và chồng chéo đáng kể với Khu liên bang Ural và với khu vực kinh tế Ural. Chúng có tài nguyên phong phú, bao gồm quặng kim loại, than đá, đá quý và đá bán quý. Từ thế kỷ 18, những ngọn núi đã đóng góp đáng kể cho ngành khoáng sản của nền [[kinh tế Nga]].
==Tham khảo==
{{tham khảo}}