Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cuba”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Mexamos (thảo luận | đóng góp)
Mexamos (thảo luận | đóng góp)
Dòng 197:
Sự [[Liên Xô sụp đổ|sụp đổ của Liên Xô]] năm 1991 khiến nền kinh tế Cuba bị ảnh hưởng nặng nề. Nó dẫn tới một cuộc di cư khác tới Hoa Kỳ năm 1994, nhưng cuối cùng đã giảm xuống mức vài nghìn người một năm theo một thỏa thuận Hoa Kỳ-Cuba. Một lần nữa tăng lên trong giai đoạn 2004-2006 dù ở mức thấp hơn nhiều so với trước đó. Do hậu quả của sự tan vỡ Liên bang Xô viết, dẫn tới việc Cuba bị mất thị trường xuất khẩu và mất nguồn cung dầu mỏ với giá rẻ, khiến kinh tế Cuba bị sụt giảm tới 35% chỉ trong 4 năm (từ 1989 tới 1993). Nó cũng gây ra, tương tự như tại các quốc gia cộng sản chủ nghĩa khác, một cuộc khủng hoảng lòng tin với những người tin tưởng rằng Liên bang Xô viết là một hình mẫu "xây dựng chủ nghĩa xã hội" thành công và là một mô hình để các nước khác noi theo. Tuy nhiên, tại Cuba những sự kiện ấy chưa đủ để thuyết phục những người Cộng sản Cuba rằng họ phải thay đổi mô hình phát triển đất nước. Một nạn đói nghiêm trọng đã xảy ra ở Cuba trong thời kỳ này <ref name="cmaj">{{cite journal|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal|pmc=2474886|year=2008|volume=179|issue=3|pmid=18663207|pages=257|doi=10.1503/cmaj.1080068|journal=CMAJ : Canadian Medical Association Journal }}</ref>. Chính phủ Cuba đã từ chối các khoản viện trợ thực phẩm, thuốc men và tiền bạc của Mỹ cho đến tận năm 1993 <ref name="cmaj">{{cite journal|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal|pmc=2474886|year=2008|volume=179|issue=3|pmid=18663207|pages=257|doi=10.1503/cmaj.1080068|journal=CMAJ : Canadian Medical Association Journal }}</ref>, khiến cho nhiều người dân Cuba phải ăn bất cứ thứ gì họ có thể tìm thấy. Trong vườn thú Havana, nhiều con [[chim công]], [[Bison|bò bison]] và thậm chí cả [[đà điểu Nam Mỹ]] đã bị làm thịt <ref name="parrotdiplomacy">{{Cite news|url=http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|title=Venezuela and Cuba: Parrot diplomacy|work=The Economist|date=24 July 2008|accessdate=27 February 2015|archive-url=https://web.archive.org/web/20090801015821/http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|archive-date=1 August 2009|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Ngay cả [[mèo nhà]] cũng được cho là đã bị giết hàng loạt để lấy thịt <ref name="parrotdiplomacy">{{Cite news|url=http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|title=Venezuela and Cuba: Parrot diplomacy|work=The Economist|date=24 July 2008|accessdate=27 February 2015|archive-url=https://web.archive.org/web/20090801015821/http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|archive-date=1 August 2009|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>.
 
Tình trạng thiếu lương thực và mất điện trên diện rộng đã dẫn đến một thời gian ngắn cực kỳ bất ổn, nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ nổ ra cùng với đó là sự gia tăng tội phạm ở các thành thị. [[Đảng Cộng sản Cuba]] đã thành lập hàng trăm "lữ đoàn tác chiến nhanh" để đối đầu với người biểu tình. Vào tháng 7 năm 1994, 41 người Cuba đã chết đuối khi cố gắng chạy trốn khỏi đất nước trên một chiếc tàu kéo ; Chính phủ Cuba bị cáo buộc đã đánh chìm con tàu ​​một cách có chủ ý <ref name="werlau-tugboatmassacre">{{Cite web|url=http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|title=Cuba: The Tugboat Massacre of July 13, 1994|author=Maria C. Werlau|accessdate=21 June 2009|archive-url=https://web.archive.org/web/20071007152129/http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|archive-date=7 October 2007|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Hàng ngàn người Cuba đã biểu tình ở Havana trong cuộc nổi dậy Maleconazo vào ngày 5 tháng 8 năm 1994. Tuy nhiên, lực lượng an ninh của chế độ đã nhanh chóng giải tán họ <ref name="cancubachange">{{Cite journal|url=http://www.journalofdemocracy.org/articles/gratis/Gutierrez-20-1.pdf|title=Can Cuba Change?|author1=Carl Gershman|author2=Orlando Gutierrez|journal=Journal of Democracy|date=January 2009|volume=20|issue=1|access-date=26 August 2009|archive-url=https://web.archive.org/web/20090918225042/http://www.journalofdemocracy.org/articles/gratis/Gutierrez-20-1.pdf|archive-date=18 September 2009|url-status=dead|df=dmy-all}}</ref>. Ước tính đã có 30.000 người Cuba rời khỏi đất nước bằng đường biển trong khoảng thời gian này, hàng ngàn người trong số đó đã chết đuối hoặc bị cá mập ăn thịt <ref name="cmajspecialperiod">{{cite web|url=http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi?artid=2474886|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal}}</ref> .
 
Tới cuối thập kỷ 1990, tình hình kinh tế Cuba đã được ổn định. Khi ấy Cuba đã ít nhiều có các mối quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh và đã cải thiện quan hệ với [[Liên minh châu Âu]], tổ chức này bắt đầu có quan hệ thương mại và các khoản giúp đỡ cho hòn đảo này. Trung Quốc cũng xuất hiện với tư cách một đối tác tiềm năng mới, thậm chí khi Cuba đã đứng về phía Liên Xô trong cuộc [[Chia rẽ Trung-Xô]] trong thập kỷ 1960. Cuba cũng tìm thấy các đồng minh mới là [[Danh sách tổng thống Venezuela|Tổng thống]] [[Hugo Chávez]] tại [[Venezuela]] và [[Tổng thống Bolivia|Tổng thống]] [[Evo Morales]] của [[Bolivia]], những nước xuất khẩu dầu và khí tự nhiên lớn.