Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Erich Hartmann”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 22:
'''Erich Alfred Hartmann''' ([[19 tháng 4]] năm [[1922]] – [[20 tháng 9]] năm [[1993]]), biệt danh "''Bubi''" (tên viết tắt của "chàng trai trẻ") bởi những đồng đội của mình hay "''Con quỷ đen''" bởi các đối thủ [[Liên Xô]] là một [[phi công]] [[Máy bay chiến đấu|chiến đấu cơ]] [[người Đức]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]. Ông là [[Ách (phi công)|phi công át chủ bài]] nắm giữ kỷ lục có thành tích cao nhất trong lịch sử hàng không quân sự thế giới với 352 chiến tích (trong đó 345 là thành tích trên các máy bay thuộc [[Không quân Liên Xô]] và 260 là chiến đấu cơ) trong tổng số 1.404 phi vụ. Ông đã tham gia 825 trận không chiến, buộc phải hạ cánh 14 lần trong tình trạng chiếc máy bay của ông bị hư hại do trúng phải mảnh vỡ của các máy bay mà ông vừa bắn hạ hay do lỗi kỹ thuật. Hartmann đặc biệt chưa bao giờ bị bắn hạ hay buộc phải hạ cánh do trúng hỏa lực đối phương.<ref>Toliver và Constable 1986, trang 12.</ref>
 
Giai đoạn trước Thế chiến thứ hai, Hartmann là một phi công [[tàu lượn]]. Ông gia nhập [[Không quân Đức|Luftwaffe]] năm [[1940]] và hoàn thành khóa huấn luyện phi công chiến đấu cơ vào năm [[1942]]. Được biên chế đến Không đoàn Chiến đấu cơ 52 ([[Jagdgeschwader 52]]-JG 52) tại [[Chiến tranh Xô-Đức|mặt trận Xô-Đức]], ông may mắn được sự hướng dẫn của những phi công chiến đấu cơ nhiều kinh nghiệm của Luftwaffe và từ đó đã phát triển những chiến thuật chiến đấu của riêng mình. Ngày [[25 tháng 8]] năm [[1944]], sau khi đã có 301 chiến thắng, ông được trao tặng Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ với Lá sồi, Thanh kiếm và Kim cương (Ritterkreuz mit Eichenlaub, Schwertern und Brillanten).
 
Chiến thắng cuối cùng của ông đến vào ngày [[8 tháng 5]] năm [[1945]]. Ông và những người còn sống sót của JG 52 đã đến đầu hàng [[Quân đội Hoa Kỳ]] nhưng sau đó bị đưa sang phía [[Hồng Quân|Hồng quân Liên Xô]]. Nhằm tạo áp lực để Hartmann gia nhập [[Không quân Đông Đức]] (Volksarmee), phía Liên Xô đã kết tội oan ông là [[tội phạm chiến tranh]], mà về sau này được tòa án Nga minh oan. Hartmann bị kết tội 25 năm tù lao động khổ sai và sau 10 năm ở trong các trại tù và [[gulag]] của [[Liên Xô]], trước khi được thả ra năm 1955.
 
Năm 1956, Hartmann gia nhập Không quân Tây Đức ([[Bundesluftwaffe]]) và trở thành [[Geschwaderkommodore]] của Không đoàn Chiến đấu cơ 71 (Jagdgeschwader 71) "Richthofen". Hartmann về hưu sớm năm [[1970]] do sự chống đối của ông với thượng cấp trong việc Luftwaffe đưa chiến đấu cơ [[Lockheed F-104 Starfighter|F-104 Starfighter]] vào biên chế chiến đấu. Sau khi về hưu, ông tiếp tục tham gia huấn luyện bay một thời gian.<ref name="Berger p107">Berger 1999, trang 107.</ref> Ông mất vì bệnh vào ngày 20 tháng 9 năm 1993.
 
== Tuổi thơ ==