Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Fidel Castro”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
chắc bạn nhầm, đoạn này tôi dịch từ bài special period trên wiki anh chứ ko copy của ai cả.
Thẻ: Lùi sửa
Xem lịch sử bài Cuba để biết đoạn này của tài khoản rối đã bị hủy
Thẻ: Lùi sửa
Dòng 180:
Trong thời kỳ này, nhờ sự trợ giúp của khối Xã hội chủ nghĩa và sự tự lực trong nước, kinh tế Cuba phát triển nhanh chóng. Thập niên 1970, kinh tế Cuba tăng trưởng bình quân 7%/năm, nửa đầu thập niên 1980 là 8% mỗi năm. Thu nhập của người dân Cuba đạt mức trung bình cao trên thế giới. Giáo dục, y tế đã đạt mức tương đương các quốc gia phát triển<ref>Tính trước nguy cơ 20 năm, suy ngẫm về Đảng Cộng sản Liên Xô mất đảng. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Trang 28</ref>
 
Tình trạng thiếu lương thực và mất điện trên diện rộng đã dẫn đến một thời gian ngắn cực kỳ bất ổn, nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ nổ ra. [[Đảng Cộng sản Cuba]] đã thành lập hàng trăm "lữ đoàn tác chiến nhanh" để đối phó với người biểu tình. Vào tháng 7 năm 1994, 41 người Cuba đã chết đuốiSau khi cốLiên gắng chạysụp trốn khỏi đất nước trên một chiếc tàu kéo ; Chính phủ Cuba bị cáo buộc đã cố ý đánh chìm con tàu <ref name="werlau-tugboatmassacre">{{Cite web|url=http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|title=Cuba: The Tugboat Massacre of July 13đổ, 1994|author=Maria C. Werlau|accessdate=21 June 2009|archive-url=https://web.archive.org/web/20071007152129/http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|archive-date=7 October 2007|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Ước tính có 30.000 người Cuba rời khỏi đất nước bằng đường biển trong khoảng thời gian này, hàng ngàn người trong số đó đã chết đuối hoặc bị cá mập giết chết <ref name="cmajspecialperiod">{{cite web|url=http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi?artid=2474886|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal}}</ref>. Fidel đã buộc đưa ra các biện pháp kinh tế mới, gồm cho phép một số công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ và chế tạo, hợp pháp hóa sự sử dụng đồng [[đô la Mỹ|dollar Mỹ]] trong thương mại và khuyến khích [[Du lịch Cuba|du lịch]]. Năm 1996 du lịch đã vượt qua ngành công nghiệp mía đường để trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho Cuba. Cuba đã tăng gấp ba thị phần du lịch của mình tại Caribbean trong thập kỷ qua, với sự đầu tư to lớn vào hạ tầng du lịch, tỷ lệ tăng trưởng này được dự đoán sẽ còn tiếp diễn.<ref>{{Chú thích web| các tác giả =Nicolás Crespo and Santos Negrón Díaz | url =http://lanic.utexas.edu/la/cb/cuba/asce/cuba7/crespo.pdf | tiêu đề =Cuban tourism in 2007: economic impact | nhà xuất bản =University of Texas | ngày truy cập =ngày 9 tháng 7 năm 2006}}</ref> 1,9 triệu du khách đã tới Cuba năm 2003 chủ yếu từ Canada và Liên minh châu Âu mang lại khoản tiền 2,1 tỷ dollar cho nước này.<ref name="state.gov">{{Chú thích web | năm = 2005 | tháng =December | url = http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/2886.htm | tiêu đề = Background Note: Cuba | nhà xuất bản =U.S. Department of State | ngày truy cập =ngày 9 tháng 7 năm 2006}}</ref> Chính phủ Cuba đã phát triển đáng kể khả năng [[Du lịch y tế]] của họ, coi đó là một trong những phương tiện quan trọng mang lại thu nhập cho đất nước. Trong nhiều năm, Cuba đã phát triển các bệnh viện đặc biệt điều trị bệnh riêng cho người ngoại quốc và các nhà ngoại giao nước ngoài. Mỗi năm, hàng ngàn người châu Âu, người Mỹ Latinh, người Canada và người Mỹ tới đây để sử dụng các dịch vụ chăm sóc y tế có giá cả thấp hơn tới 80% so với tại Hoa Kỳ.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba rơi vào một thời kỳ khủng hoảng được gọi là "Thời kỳ đặc biệt" (special period). Một nạn đói đã xảy ra ở Cuba với mức độ nghiêm trọng ngang với [[nạn đói tại Bắc Triều Tiên]] <ref name="cmaj">{{cite journal|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal|pmc=2474886|year=2008|volume=179|issue=3|pmid=18663207|pages=257|doi=10.1503/cmaj.1080068|journal=CMAJ : Canadian Medical Association Journal }}</ref>. Chính phủ Cuba đã từ chối không nhận các khoản viện trợ thực phẩm, thuốc men và tiền bạc từ Mỹ cho đến năm 1993 <ref name="cmaj">{{cite journal|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal|pmc=2474886|year=2008|volume=179|issue=3|pmid=18663207|pages=257|doi=10.1503/cmaj.1080068|journal=CMAJ : Canadian Medical Association Journal }}</ref>. Bị đói, nhiều người dân Cuba phải ăn bất cứ thứ gì họ có thể tìm được. Trong vườn thú Havana, những chú [[chim công]], [[Bison|bò bison]] và [[đà điểu Nam Mỹ]] đã bị giết để lấy thịt <ref name="parrotdiplomacy">{{Cite news|url=http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|title=Venezuela and Cuba: Parrot diplomacy|work=The Economist|date=24 July 2008|accessdate=27 February 2015|archive-url=https://web.archive.org/web/20090801015821/http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|archive-date=1 August 2009|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Ngay cả [[mèo nhà]] cũng được cho là đã bị giết hàng loạt để làm thức ăn <ref name="parrotdiplomacy">{{Cite news|url=http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|title=Venezuela and Cuba: Parrot diplomacy|work=The Economist|date=24 July 2008|accessdate=27 February 2015|archive-url=https://web.archive.org/web/20090801015821/http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id=11792274|archive-date=1 August 2009|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Nền kinh tế Cuba bị ảnh hưởng nặng nề. Nó dẫn tới một cuộc di cư khác tới Hoa Kỳ năm 1994, nhưng cuối cùng đã giảm xuống mức vài nghìn người một năm theo một thỏa thuận Hoa Kỳ-Cuba. Một lần nữa tăng lên trong giai đoạn 2004-2006 dù ở mức thấp hơn nhiều so với trước đó. Do hậu quả của sự tan vỡ Liên bang Xô viết, dẫn tới việc Cuba bị mất thị trường xuất khẩu và mất nguồn cung dầu mỏ với giá rẻ, khiến kinh tế Cuba bị sụt giảm tới 35% chỉ trong 4 năm (từ 1989 tới 1993). Nó cũng gây ra, tương tự như tại các quốc gia cộng sản chủ nghĩa khác, một cuộc khủng hoảng lòng tin với những người tin tưởng rằng Liên bang Xô viết là một hình mẫu "xây dựng chủ nghĩa xã hội" thành công và là một mô hình để các nước khác noi theo. Tuy nhiên, tại Cuba những sự kiện ấy chưa đủ để thuyết phục những người Cộng sản Cuba rằng họ phải thay đổi mô hình phát triển đất nước.
Tình trạng thiếu lương thực và mất điện trên diện rộng đã dẫn đến một thời gian ngắn cực kỳ bất ổn, nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ nổ ra. [[Đảng Cộng sản Cuba]] đã thành lập hàng trăm "lữ đoàn tác chiến nhanh" để đối phó với người biểu tình. Vào tháng 7 năm 1994, 41 người Cuba đã chết đuối khi cố gắng chạy trốn khỏi đất nước trên một chiếc tàu kéo ; Chính phủ Cuba bị cáo buộc đã cố ý đánh chìm con tàu <ref name="werlau-tugboatmassacre">{{Cite web|url=http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|title=Cuba: The Tugboat Massacre of July 13, 1994|author=Maria C. Werlau|accessdate=21 June 2009|archive-url=https://web.archive.org/web/20071007152129/http://www.cubaarchive.org/13_DE_MARZO_TUGBOAT_MASSACRE.pdf|archive-date=7 October 2007|url-status=live|df=dmy-all}}</ref>. Ước tính có 30.000 người Cuba rời khỏi đất nước bằng đường biển trong khoảng thời gian này, hàng ngàn người trong số đó đã chết đuối hoặc bị cá mập giết chết <ref name="cmajspecialperiod">{{cite web|url=http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi?artid=2474886|title=Health consequences of Cuba's Special Period|publisher=Canadian Medical Association Journal}}</ref>. Fidel đã buộc đưa ra các biện pháp kinh tế mới, gồm cho phép một số công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ và chế tạo, hợp pháp hóa sự sử dụng đồng [[đô la Mỹ|dollar Mỹ]] trong thương mại và khuyến khích [[Du lịch Cuba|du lịch]]. Năm 1996 du lịch đã vượt qua ngành công nghiệp mía đường để trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho Cuba. Cuba đã tăng gấp ba thị phần du lịch của mình tại Caribbean trong thập kỷ qua, với sự đầu tư to lớn vào hạ tầng du lịch, tỷ lệ tăng trưởng này được dự đoán sẽ còn tiếp diễn.<ref>{{Chú thích web| các tác giả =Nicolás Crespo and Santos Negrón Díaz | url =http://lanic.utexas.edu/la/cb/cuba/asce/cuba7/crespo.pdf | tiêu đề =Cuban tourism in 2007: economic impact | nhà xuất bản =University of Texas | ngày truy cập =ngày 9 tháng 7 năm 2006}}</ref> 1,9 triệu du khách đã tới Cuba năm 2003 chủ yếu từ Canada và Liên minh châu Âu mang lại khoản tiền 2,1 tỷ dollar cho nước này.<ref name="state.gov">{{Chú thích web | năm = 2005 | tháng =December | url = http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/2886.htm | tiêu đề = Background Note: Cuba | nhà xuất bản =U.S. Department of State | ngày truy cập =ngày 9 tháng 7 năm 2006}}</ref> Chính phủ Cuba đã phát triển đáng kể khả năng [[Du lịch y tế]] của họ, coi đó là một trong những phương tiện quan trọng mang lại thu nhập cho đất nước. Trong nhiều năm, Cuba đã phát triển các bệnh viện đặc biệt điều trị bệnh riêng cho người ngoại quốc và các nhà ngoại giao nước ngoài. Mỗi năm, hàng ngàn người châu Âu, người Mỹ Latinh, người Canada và người Mỹ tới đây để sử dụng các dịch vụ chăm sóc y tế có giá cả thấp hơn tới 80% so với tại Hoa Kỳ.
 
Tới cuối thập kỷ 1990, Cuba đã có các mối quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh và đã cải thiện quan hệ với [[Liên minh châu Âu]], tổ chức này bắt đầu có quan hệ thương mại với Cuba. Trung Quốc cũng xuất hiện với tư cách một đối tác tiềm năng mới. Cuba cũng tìm thấy các đồng minh mới là [[Venezuela]] và [[Bolivia]], những nước xuất khẩu dầu và khí tự nhiên lớn.
Hàng 188 ⟶ 186:
Năm 2014, Cuba thống kê việc [[Hoa Kỳ cấm vận chống Cuba]] đã khiến kinh tế nước này thiệt hại 1,11 nghìn tỷ USD trong 55 năm qua (trung bình mỗi năm thiệt hại 20 tỷ USD). Trong 22 năm qua, Liên hiệp quốc năm nào cũng thông qua một nghị quyết yêu cầu Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận chống Cuba với sự ủng hộ áp đảo của các thành viên thể hiện sự đoàn kết ủng hộ cho Cuba. Năm 2013, bản nghị quyết đã nhận được 188 phiếu thuận và chỉ có 2 phiếu chống của [[Mỹ]] và [[Israel]]<ref>{{Chú thích web | url = http://vneconomy.vn/the-gioi/cuba-tuyen-bo-tong-thiet-hai-1168-ty-usd-vi-cam-van-20140910080043736.htm | tiêu đề = Cuba tuyên bố tổng thiệt hại 116,8 tỷ USD vì cấm vận | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 9 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam | ngôn ngữ = }}</ref> (tuy nhiên, do Mỹ là nước có quyền phủ quyết ở Liên Hiệp quốc nên dù Nghị quyết có số phiếu thuận áp đảo thì vẫn không được thông qua). Năm 2014, sau 53 năm bao vây cấm vận, Tổng thống Mỹ [[Barack Obama]] đã tuyên bố mong muốn bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước.
 
Bất chấp thiệt hại do cấm vận kinh tế, theo số liệu của [[Ngân hàng Thế giới]] (WB), Cuba vẫn là nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bìnhkhá cao, đạt mức 18.796 USD/người/năm (theo sức mua tương đương - PPP) vào năm 2011, bằng một nửa [[Nhật Bản]] và xếp hạng 60/185 quốc gia.<ref>[http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2014/02/weodata/weorept.aspx?sy=2013&ey=2013&ssd=1&sort=country&ds=.&br=1&pr1.x=16&pr1.y=7&c=512%2C668%2C914%2C672%2C612%2C946%2C614%2C137%2C311%2C962%2C213%2C674%2C911%2C676%2C193%2C548%2C122%2C556%2C912%2C678%2C313%2C181%2C419%2C867%2C513%2C682%2C316%2C684%2C913%2C273%2C124%2C868%2C339%2C921%2C638%2C948%2C514%2C943%2C218%2C686%2C963%2C688%2C616%2C518%2C223%2C728%2C516%2C558%2C918%2C138%2C748%2C196%2C618%2C278%2C522%2C692%2C622%2C694%2C156%2C142%2C624%2C449%2C626%2C564%2C628%2C565%2C228%2C283%2C924%2C853%2C233%2C288%2C632%2C293%2C636%2C566%2C634%2C964%2C238%2C182%2C662%2C453%2C960%2C968%2C423%2C922%2C935%2C714%2C128%2C862%2C611%2C135%2C321%2C716%2C243%2C456%2C248%2C722%2C469%2C942%2C253%2C718%2C642%2C724%2C643%2C576%2C939%2C936%2C644%2C961%2C819%2C813%2C172%2C199%2C132%2C733%2C646%2C184%2C648%2C524%2C915%2C361%2C134%2C362%2C652%2C364%2C174%2C732%2C328%2C366%2C258%2C734%2C656%2C144%2C654%2C146%2C336%2C463%2C263%2C528%2C268%2C923%2C532%2C738%2C944%2C578%2C176%2C537%2C534%2C742%2C536%2C866%2C429%2C369%2C433%2C744%2C178%2C186%2C436%2C925%2C136%2C869%2C343%2C746%2C158%2C926%2C439%2C466%2C916%2C112%2C664%2C111%2C826%2C298%2C542%2C927%2C967%2C846%2C443%2C299%2C917%2C582%2C544%2C474%2C941%2C754%2C446%2C698%2C666&s=PPPPC&grp=0&a= World Economic Outlook Database, October 2014], International Monetary Fund. Database updated on ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập on ngày 8 tháng 10 năm 2014.</ref> Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng ở mức cao (0,815 điểm vào năm 2013, hạng 44 thế giới)<ref>{{Chú thích web | url = http://hdr.undp.org/en/content/human-development-report-2014 | tiêu đề = Human Development Report 2014 | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 9 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
 
Tháng 1 năm [[2004]], [[Luis Eduardo Garzón]], thị trưởng của [[Bogotá]]&nbsp;– thủ đô của [[Colombia|Columbia]]&nbsp;– sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta "trông có vẻ rất ốm yếu". [[Tháng 5 năm 2004]], bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.