Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Keo (Thái Bình)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 33:
Công việc xây dựng ngôi chùa Keo Thượng được bắt đầu từ năm [[1630]] và hoàn thành vào năm [[1632]] theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc Lễ (Lại Thị Ngọc Lễ vốn thuộc dòng quyền quý, quê gốc ở làng Quang Lãng, huyện Tống Sơn, xứ Thanh Hoa, cụ tổ là quan huyện thừa Lại Thế Tương. Lại Thị Ngọc Lễ cùng em Lại Thế Nghĩa là con quan Phò mã Lãng quận công Lại Thế Thời, chắt nội Thái tể Khiêm quốc công Lại Thế Khanh, cháu ngoại Thanh Đô vương Trịnh Tráng.), vợ Tuần Thọ hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ. Chùa do Cường Dũng hầu Nguyễn Văn Trụ vẽ kiểu, phỏng theo kiến trúc của chùa Keo Hành Thiện. Sau khi xây dựng xong, chùa được trùng tu nhiều lần, vào các năm [[1689]], [[1707]], [[1941]]... Lần trùng tu năm [[1941]], có sự giúp đỡ của [[Viện Viễn Đông Bác cổ|Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp]].
 
Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng khoảng 58.000 [[mét vuông|]], gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc".
==Kiến trúc==
Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng khoảng 58.000 [[mét vuông|m²]], gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc".
 
Từ cột cờ bằng [[gỗ chò]] thẳng tắp cao 25 [[mét|m]] ở ngoài cùng, đi qua một sân lát [[đá]], khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở [[chùa Phổ Minh]] tiêu biểu cho kiến trúc đời [[nhà Trần]] thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời [[nhà Lê sơ|nhà Lê]].
 
Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.
 
Đi đến phần chùa thờ [[Phật]], gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Ngôi nhà ở ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Thích Ca]] nhập [[Niết-bàn|Niết bàn]], tượng [[Quán Thế Âm|Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề]] đặt giữa tượng [[Văn-thù-sư-lợi|Văn Thù Bồ Tát]][[Phổ Hiền|Phổ Hiền Bồ Tát]]. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng.
 
Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ [[Không Lộ]] - [[Lý Quốc Sư]]. Toàn bộ công trình đều làm bằng [[gỗ lim]] và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời [[nhà Hậu Lê]] chạm khắc rất tinh xảo.
 
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã từng dùng giã [[gạo]] nuôi thợ xây chùa từ xưa.
 
[[Hình:chuonglonchuakeo.jpg|Thumb|trái|300px|Chuông lớn chùa Keo]]
 
Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông chùa Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng mái,kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một [[khánh đá]] cao 1,20 m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm [[1686]] cao 1,30 m, đường kính 1 m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm [[1796]].
 
Hai hành lang chạy dài từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.
 
Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng [[ngà]], một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát [[vàng]] mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
 
Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu [[thế kỷ 17]], với nhiều kiệt tác đặc sắc.
 
Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng [[Âm lịch]], nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng.
 
Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 1000 năm ngày Thiền sư Không Lộ ([[1016]]-[[1094]]), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 Âm lịch).
 
Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
 
Có câu ca dao về hội chùa Keo:
:::''Dù cho cha đánh mẹ treo,''
:::''Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.''
 
:::''Dù cho cha đánh mẹ treo,''
{{Di tích Việt Nam hạng đặc biệt}}
:::''Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.''
 
==Tham khảo==