Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Loạn 12 sứ quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
chữ quân ở đây không có nghĩa là vua, sứ quân= thái thú, ngự sử
Theo cuốn "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng" của Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998 thì từ "Sứ quân" được dịch là "Vua cai trị" (sứ: cai trị, quân: vua). Ở Trung Hoa, Sứ quân còn là cách gọi tôn xưng dành cho người nắm giữ chức đầu của một châu mục nào đó, tức Thứ sử (Theo định nghĩa của từ điển Từ nguyên).[13] Cách gọi này được dùng trong các văn bản từ đời Hán cho đến đời Thanh.
Dòng 3:
[[File:Map of 12 Warlords in Anarchy of the 12 Warlords.svg|nhỏ|trái|Sơ đồ vị trí quân sự chiếm đóng của 12 sứ quân.]]
 
'''Loạn 12 sứ quân''' (''Thập nhị sứ quân chi loạn'', [[chữ Hán]]: 十二使君之亂, ''"sứ quân"dịch chỉnghĩa thống lĩnh tương''loạn đương12 vớivua tháicai thútrị'') là một giai đoạn các vùng cát cứ quân sự giao tranh với nhau và gây ra loạn lạc trong [[lịch sử Việt Nam]] diễn ra vào giữa thời kỳ [[nhà Ngô]] và [[nhà Đinh]], được ghi chép trong phần Bản kỷ Ngô Sứ quân [[Ngô Xương Xí]].
 
Cuộc loạn lạc này có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về [[kinh tế]], [[chính trị]] và tạo ra sự phân tán cát cứ. Thực chất của cuộc [[nội chiến]] này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất [[Tĩnh Hải quân]] của các thủ lĩnh địa phương khi [[nhà Đường]] suy yếu, [[người Việt]] có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có mầm mống từ đầu [[thế kỷ X]] và có cơ hội phát triển mạnh từ khi [[Dương Tam Kha]] cướp ngôi [[nhà Ngô]], các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng, nhiều người còn xưng [[Vương]] như An vương [[Ngô Nhật Khánh]], Vũ Ninh vương [[Nguyễn Thủ Tiệp]], Quang Hiển quốc vương [[Kiều Thuận]], Quảng Trí quân [[Nguyễn Khoan]] hoặc tranh ngôi vua như [[Lã Xử Bình]], [[Dương Huy]], [[Đỗ Cảnh Thạc]], [[Kiều Công Hãn]] và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.