Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sư đoàn 7 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 14:
[[Hình: Quân kỳ Sư đoàn 7 Bộ binh.png|120px|nhỏ|trái|<center>Quân kỳ]]
}}
'''Sư đoàn 7 Bộ binh''', là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc [[Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn IV và Quân khu 4]] của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975, hoạt động tại khu vực Đồng bằng sông Tiền Giang ở miền Tây thuộc phía Nam lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.<ref>Tiền thân là một đơn vị Bộ binh Lưu động của Quân đội Liên hiệp Pháp, đã có nhiệm vụ bảo vệ một số tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc phần, đồn trú tại Hải Dương. Sau Hiệp định Genève, di chuyển vào Nam và trở thành Sư đoàn 7 Bộ binh.</ref> Nhiệm vụ của Sư đoàn 7 rất gian truân và nặng nề. Thường xuyên phải hành quân truy quét Quân Giải phóng miền Nam mà hiện thân là quân du kích địa phương, để gìn giữ an ninh cho khu vực "trách nhiệm bảo an" của mình, đồng thời luôn hỗ trợ cho các đơn vị Địa phương quân của các Tiểu khu.
*Từ năm 1969 Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại căn cứ Đồng Tâm<ref>Căn cứ Đồng Tâm nguyên là nơi quân đội Mỹ đồn trú, cách Mỹ Tho 10 km về phía tây.</ref>, địa điểm này cũng là Hậu cứ của Sư đoàn cho đến cuối tháng 4/1975.
==Lịch sử hình thành==
Hàng 30 ⟶ 29:
Mùa hè năm 1955, Sư đoàn di chuyển từ Quảng Nam vào miền Nam, đồn trú tại Biên Hòa. Tháng 8, được cải danh thành đơn vị Dã chiến. Sau vài tuần lễ lại thay đổi phiên hiệu là Sư đoàn Dã chiến số 11. Tháng 10 cùng năm cải danh thành Sư đoàn Dã chiến số 4.<ref>Theo Sự vụ Văn thư số 3975/TTM//1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955.</ref> Đến đầu tháng 12 năm 1958, Sư đoàn được cải danh lần cuối cùng thành Sư đoàn 7 Bộ binh.
Ngày 20 tháng 5 năm 1961, Sư đoàn di chuyển về miền tây Nam phần, trú đóng tại Thị xã Mỹ Tho.
Địa bàn hoạt động và trách nhiệm của Sư đoàn gồm các tỉnh: Định Tường, Gò Công, Long An, Kiến Tường, Kiến Phong và Kiến Hòa thuộc Khu chiến thuật 43.
|