Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Võ Tắc Thiên”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 35:
| tôn giáo= [[Phật giáo]]
}}
'''Võ Tắc Thiên''' ([[chữ Hán]]: 武則天, [[17 tháng 2]], [[624]] - [[16 tháng 12]], [[705]]<ref>[http://www.sinica.edu.tw/ftms-bin/kiwi1/luso.sh?lstype=2&dyna=%AD%F0&king=%AAZ%A6Z&reign=%B8%FC%AA%EC&yy=1&ycanzi=&mm=9&dd=9&dcanzi= Academia Sinica - Chuyển hoán Trung Tây lịch]</ref>), cũng được đọc là '''Vũ Tắc Thiên'''{{refn|Võ Tắc Thiên 武則天 cũng được Nguyễn Danh Phiệt trong sách ''Hồ Quý Ly''; bản dịch năm 2004 của sách ''Quốc sử toản yếu'' của Nguyễn Huy Oánh; sách ''Thơ văn Lý-Trần, Tập 3'' của Viện Văn học đọc là Vũ Tắc Thiên.<ref>Nguyễn Danh Phiệt, ''Hồ Quý Ly'', Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997, trang 91.</ref><ref>Nguyễn Huy Oánh, ''Quốc sử toản yếu'', Nhà xuất bản Thuận Hóa, Thừa Thiên - Huế, 2004, trang 216.</ref><ref>Viện Văn học, ''Thơ văn Lý-Trần, Tập 3'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, trang 220.</ref>|group="ten-nhan-vat"}}, thường gọi '''Võ hậu''' (武后) hoặc '''Thiên Hậu'''; 天后
Cùng với tôn hiệu Thiên Hậu của bà và tôn hiệu
▲'''Võ Tắc Thiên''' ([[chữ Hán]]: 武則天, [[17 tháng 2]], [[624]] - [[16 tháng 12]], [[705]]<ref>[http://www.sinica.edu.tw/ftms-bin/kiwi1/luso.sh?lstype=2&dyna=%AD%F0&king=%AAZ%A6Z&reign=%B8%FC%AA%EC&yy=1&ycanzi=&mm=9&dd=9&dcanzi= Academia Sinica - Chuyển hoán Trung Tây lịch]</ref>), cũng được đọc là '''Vũ Tắc Thiên'''{{refn|Võ Tắc Thiên 武則天 cũng được Nguyễn Danh Phiệt trong sách ''Hồ Quý Ly''; bản dịch năm 2004 của sách ''Quốc sử toản yếu'' của Nguyễn Huy Oánh; sách ''Thơ văn Lý-Trần, Tập 3'' của Viện Văn học đọc là Vũ Tắc Thiên.<ref>Nguyễn Danh Phiệt, ''Hồ Quý Ly'', Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997, trang 91.</ref><ref>Nguyễn Huy Oánh, ''Quốc sử toản yếu'', Nhà xuất bản Thuận Hóa, Thừa Thiên - Huế, 2004, trang 216.</ref><ref>Viện Văn học, ''Thơ văn Lý-Trần, Tập 3'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, trang 220.</ref>|group="ten-nhan-vat"}}, thường gọi '''Võ hậu''' (武后) hoặc '''Thiên Hậu'''; 天后], là một [[phi tần]] ở Hậu cung của [[Đường Thái Tông]] Lý Thế Dân, sau này trở thành [[Hoàng hậu]] của [[Đường Cao Tông]] Lý Trị. Bà là mẹ của 2 vị Hoàng đế kế tiếp, [[Đường Trung Tông]] [[Lý Hiển]] và [[Đường Duệ Tông]] [[Lý Đán]].
▲Cùng với tôn hiệu Thiên Hậu của bà và tôn hiệu ['''Thiên Hoàng'''; 天皇] của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là ['''Nhị Thánh'''; 二聖]. Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên Hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách [[Hoàng thái hậu]], và cuối cùng trở thành [[Hoàng đế]] duy nhất của triều đại [[Võ Chu]], triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm [[690]] đến năm [[705]]. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành [[Nữ hoàng]] duy nhất được công nhận trong [[lịch sử Trung Quốc]]<ref>Thời [[Bắc Ngụy]], Hồ Thái hậu từng đưa một người cháu gái của mình lên ngôi, nhưng nói dối là con trai và chỉ được vài ngày thì bị phế truất, do đó công chúa Nguyên thị này thường không được coi là Hoàng đế</ref>. Dù vậy, [[Cựu Đường thư]] và [[Tân Đường thư]] vẫn chỉ gọi bà là [''Thái hậu''] ngay cả sau khi bà tự xưng Đế, đó là vì vấn đề không nhìn nhận địa vị của bà trong thời đại cũ.
Trong 15 năm cai trị với tôn hiệu '''Thánh Thần Hoàng đế''' (聖神皇帝), Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, hoàn thành cuộc chinh phục bán đảo [[Triều Tiên]]. Nội địa khuyến khích phát triển [[Phật giáo]], tập trung phát triển kinh tế - xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn nữ ti đã ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần [[nhà Đường]] không phục. Cuối đời, bà có hai nam sủng là anh em họ Trương, [[Trương Xương Tông]] và [[Trương Dịch Chi]], cùng họ dâm loạn trong cung, vì sủng ái hai anh em mà bà dung túng cho 2 người chuyên quyền, khiến nhiều quần thần bất bình. Tới năm [[705]], [[Tể tướng]] đương triều là [[Trương Giản Chi]] cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thoái ngôi và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà bị giam lỏng ở [[Thượng Dương cung]] tại [[Lạc Dương]] cho đến khi qua đời không lâu sau đó, với tuổi thọ là khi 82 tuổi. Bà cũng trở thành 1 trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất (trên 80 tuổi), bên cạnh [[Lương Vũ Đế]] Tiêu Diễn (87 tuổi) và [[Thanh Cao Tông]] Càn Long hoàng đế (89 tuổi).
Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học [[Khổng giáo]] chỉ trích mạnh mẽ, thường so sánh bà với [[Lã hậu]] [[nhà Hán]] bởi sự chuyên quyền và tàn độc, được gọi chung là
== Thân thế và tên thật ==
|