Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử cơ học cổ điển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Di chuyển từ Category:Vật lý đến Category:Vật lý học dùng Cat-a-lot
Dòng 24:
Sau Newton, sự tạo hình lại đã cho phép dần dần đã cho phép các giải pháp để có kết quả tốt hơn rất nhiều cho vấn đề. Đầu tiên có thể kể tới [[Joseph Louis Lagrange]]. Nhà toán học này đã phát triển [[cơ học Lagrange]]. Trong cơ học này sử dụng con đường của các hành động tối thiểu và đi theo [[tính toán của các biến số]]. [[William Rowan Hamilton]] đã tạo hình lại cơ học Lagrange vào năm [[1833]]. Sự thuận lợi của [[cơ học Hamilton]] là khung của nó cho phép một cái nhìn sâu hơn vào các nguyên lý cơ bản. Hầu như khung của cơ học Hamilton có thể được thấy trong [[cơ học lượng tử]] tuy nhiên ý nghĩa thực sự của khái niệm này khác với những tác động lượng tử.
 
Mặc dù cơ học cổ điển tương thích đối với các [[lý thuyết]] của [[vật lý cổ điển]] như là [[điện động lực học]] cổ điển hay [[nhiệt động lực học]] cổ điển, có một vài khó khăn đã được khám phá trong cuối [[thế kỷ 19]] phải được giải quyết bằng vật lý hiện đại hơn. Khi kết hợp với [[nhiệt động lực học cổ điển]], cơ học cổ điển đã dẫn dắt đến [[nghịch lý Gibbs]], nghịch lý cho rằng [[entropy]] không phải là một số lượng được xác định tốt. Cũng như các thí nghiệm chạm đến mức độ nguyên tử, cơ học cổ điển đã thất bại trong việc giải thích, kể cả ở mức độ gần tiệm cận đến, cả những thứ cơ bản như là cấp độ năng lượng và kích thước của các nguyên tử. Nõ lực của việc giải quyết những vấn đề này đã dẫn đến sự phát triển của [[cơ học lượng tử ]]. Tương tự như vậy, sự đối xử khác biệt với [[điện từ]] cổ điển và cơ học cổ điển dưới tốc độ chuyển đổi đã dẫn đénđến [[thuyết tương đối]].
==Ngày nay==
Ở cuối [[thế kỷ 20]], cơ học cổ điển trong [[vật lý]] không còn là một lý thuyết độc lập nữa. Cùng với [[điện từ cổ điển]], nó đắm vào [[cơ học lượng tử tương đối]] hay [[lý thuyết trường lượng tử ]]. Nó xác định giới hạn cơ học không lượng tử, không tương đối cho nhiều hạt lớn.