Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dịch Hỗ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không in đậm vô tội vạ
Thẻ: Lùi sửa
Dòng 12:
| nhiếp chính =
| kế nhiệm =
| kiểu phối ngẫu = Đích Phúcphúc tấn
| phối ngẫu = Nữu Hỗ Lộc thị
| con cái =
Dòng 46:
Năm [[Hàm Phong]] thứ 11 ([[1861]]), tháng 7, ông phụng chỉ khi vào triều thượng tấu hay nội đình thì không cần làm lễ bái và nêu thư danh.
 
Năm [[Đồng Trị]] thứ 3 ([[1864]]), tháng 4, ông phụng chỉ phân phủ, được ở lại nội đình hành tẩu, còn được ở Thượng Thư phòng đọc sách. Tháng 7 cùng năm, quản lý sự vụ [[Võ Anh điện]] (武英殿). Tháng 10 cùng năm, quản lý sự vụ của [[Chính Hoàng kỳ]] '''Giác La học''' (正黃旗覺羅學).
 
Năm thứ 4 ([[1865]]), tháng 4, quản lý sự vụ [[Công Chính điện]] (中正殿) và '''Tả hữu dực Tông học''' (左右兩翼宗學).
 
Năm thứ 5 ([[1866]]), tháng giêng, ông trở thành '''Tộc trưởng''' của '''Hữu dực Cận chi Đệ nhất tộc''' (右翼近支第一族長).<ref>Những năm Ung Chính, kỳ tịch của Tông thất (Cận chi) được chia theo "Tả dực" (gồm ''Tương Hoàng, Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Lam'') cùng "Hữu dực". Mỗi "dực" sẽ được chia làm 20 "Tộc" (như Tả dực có ''Tương Hoàng'' 1 tộc, ''Chính Bạch'' 3 tộc, ''Tương Bạch'' 3 tộc, ''Chính Lam'' 13 tộc). Ở mỗi "Tộc" như vậy sẽ thiếp lập 1 "Tộc trưởng", 1-3 "Học trưởng" tùy theo nhân khẩu của Kỳ. Đến những năm Càn Long đã quy định lại: 40 tộc "Cận chi" được chia trước đây trở thành "Viễn chi Tông thất", lại thiết lập vài cái "Cận chi" mới. Sau tiếp tục quy định, Cận chi chia làm 6 tộc, Tả dực 2 tộc, Hữu dực 4 tộc. Mỗi tộc thiết lập 1 Tộc trưởng, 2 Học trưởng. Hữu dực Cận chi Đệ nhất tộc là một phần của [[Chính Hồng kỳ]], [[Tương Hồng kỳ]] và [[Tương Lam kỳ]].</ref>
 
Năm thứ 7 ([[1868]]), ngày 4 tháng 11 (âm lịch), giờ Dần, ông qua đời, thọ 25 tuổi, được truy thụy '''Chung Đoan Quận vương''' (鍾端郡王).