Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Chí Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trong tiếng việt từ ông bà không thể dùng trên wikipedia vì có dấu hiệu phân biệt tuổi tác, chỉ có thể dùng tên riêng gọi để trung lập thôi!
n Đã lùi lại sửa đổi của Listmaine (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Tuanminh01
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 25:
ScaleMajor = increment:31 start:1945
Colors =
  id:canvas value:rgb(1,1,0.97)
BackgroundColors = canvas:canvas
PlotData =
  width:15 color:black
  bar:era from:start till:end
  bar:era from:1945 till:1969 color:red
</timeline>
| tiền nhiệm 2 = '''chứcđầu vụ thành lập'tiên''
| kế nhiệm 2 = [[Tôn Đức Thắng]] (''Quyền Chủ tịch'')
| địa hạt 2 = [[Việt Nam]]
Dòng 107:
| cha = [[Nguyễn Sinh Sắc]]
| mẹ = [[Hoàng Thị Loan]]
| vợ = [[Tăng Tuyết Minh]] ([[#Hôn nhân|tranh cãi]])
| vợ = Không có
| chồng =
| hôn ước =
Dòng 144:
{{Chủ nghĩa Marx-Lenin}}
{{Chủ nghĩa Marx}}
'''Hồ Chí Minh''' ([[19 tháng 5]] năm [[1890]] – [[2 tháng 9]] năm [[1969]]), tên khai sinh là '''Nguyễn Sinh Cung''',<ref>Theo ''Búp sen xanh'' - Sơn Tùng.</ref> là [[nhà cách mạng]], người sáng lập [[Đảng Cộng sản Việt Nam]], một trong những người đặt nền móng và [[lãnh đạo]] công cuộc đấu tranh giành [[độc lập]], toàn vẹn [[lãnh thổ]] cho [[Việt Nam]] trong [[Thế kỷ 20|thế kỷ XX]], một [[chiến sĩ]] [[cộng sản]] quốc tế. MinhÔng là người viết và đọc bản [[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]] khai sinh nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]] tại [[Quảng trường Ba Đình]], [[Hà Nội]], [[Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] trong thời gian [[1945]]–[[1969]], Chủ tịch [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam]] trong thời gian [[1951]]–[[1969]].
 
Là [[lãnh tụ]] được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, [[lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh|lăng của Minhông]] được xây ở [[Hà Nội]], nhiều tượng đài của Hồ Chí Minh được đặt ở khắp mọi miền [[Việt Nam]], hình ảnh của Minhông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên [[bàn thờ]],<ref>[https://archive.is/20120710025704/giaoduc.net.vn/xa-hoi/ban-di-chuc-co-chu-tuyet-doi-bi-mat-cua-bac-ho/126480.gd?i=0 Bản di chúc có chữ "Tuyệt đối bí mật" của Bác Hồ]</ref><ref name=bienphong%2F>[http://dantri.com.vn/c20/s20-346902/mot-gia-dinh-40-nam-cung-gio-bac-ho.htm Một gia đình 40 năm cúng giỗ Bác Hồ]</ref><ref>[https://tuoitre.vn/gac-tho-bac-ho-tren-song-tien-316676.htm Gác thờ Bác Hồ trên sông Tiền]</ref><ref name=dantriabc>[http://dantri.com.vn/dien-dan/xom-khong-chong-o-viet-nam-len-bao-my-708748.htm "Xóm không chồng" ở Việt Nam lên báo Mỹ]</ref> và được in ở hầu hết mệnh giá [[Tiền Việt Nam|đồng tiền Việt Nam]]. Hồ Chí Minh được thờ cúng ở một số [[đền thờ]] và [[chùa]] ở [[Việt Nam]].<ref>[https://archive.is/20120717195302/vuonquocgiabavi.com.vn/?p=8&id=150&Den-Tho-Bac-Ho.html Ðền thờ Bác Hồ trên đỉnh Ba Vì]</ref><ref>[http://www.lamdong.gov.vn/vi-VN/a/hoctaphcm/tuong-niem/Pages/default.aspx Các công trình tưởng niệm Hồ Chí Minh trong nước và trên thế giới]</ref><ref>[http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=31149 Kỷ niệm ngày sinh nhật Bác (19-5): Những đền thờ Bác ở sông nước miền Tây]</ref> MinhÔng đồng thời cũng là [[nhà văn]], [[nhà thơ]] và [[nhà báo]] với nhiều tác phẩm viết bằng [[tiếng Việt]], [[tiếng Trung Quốc|tiếng Hán]] và [[tiếng Pháp]]. Hồ Chí Minh đã được [[time (tạp chí)|tạp chí ''Time'']] bình chọn là 1 trong [[Time 100: Danh sách nhân vật ảnh hưởng nhất trên thế giới thế kỷ XX|100 người có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX]].<ref>[http://content.time.com/time/magazine/0,9263,7601980413,00.html Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ]</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://content.time.com/time/specials/packages/0,28757,2020772,00.html|tiêu đề=People of the Century - TIME|work=[[Time (tạp chí)|Time]]|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,991227,00.html|tiêu đề=TIME 100 Persons Of The Century|work=[[Time (tạp chí)|Time]]|ngày truy cập = ngày 9 tháng 4 năm 2013}}</ref>
 
==Tiểu sử và sự nghiệp==
Dòng 154:
Theo [[gia phả]] của [[Nguyễn|dòng họ Nguyễn]] ở [[khu di tích lịch sử Kim Liên|làng Sen]], xã [[Kim Liên, Nam Đàn|Kim Liên]], huyện [[Nam Đàn]], [[Nghệ An]]:
:''"Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ 2 là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ 3 là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ 4 là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ 5, Nguyễn Sinh Vật là Giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức [[Lê Thần Tông]]) năm thứ 3..., tổ đời thứ 6 là Nguyễn Sinh Tài đỗ Hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ Tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm".''<ref>William Duiker, ''Ho Chi Minh - A Life'', Hyperion, 2000, tr. 15. [[Nguyễn Sinh Nhậm]] còn có tên khác là Nguyễn Sinh Vương. Năm [[Nguyễn Sinh Sắc]] lên 4 tuổi thì cả cha và mẹ là [[Hà Thị Hy]] đều mất.</ref> Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất.<ref>''Búp sen xanh'', Sơn Tùng.</ref>
Theo nhiều tài liệu chính thống cũng như tiểu sử tại [[Việt Nam]], tên lúc nhỏ của Hồ Chí Minh là '''Nguyễn Sinh Cung'''<ref>[http://www.baotanghochiminh.vn/tabid/464/Default.aspx Tiểu sử Hồ Chí Minh]</ref><ref>''Chính phủ Việt Nam 1945-1998'', phần "Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)", [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], 1999.</ref> (giọng địa phương phát âm là ''Côông''), tự là '''Tất Thành'''.<ref>Tên này do ông ngoại là thầy đồ [[Hoàng Xuân Đường]] đặt.<br />Sơn Tùng, ''Búp sen xanh'', Chương I. Thời thơ ấu.</ref> Tuy nhiên, một số tài liệu ghi nhận tên lúc nhỏ của ông là '''Nguyễn Sinh Côn'''.<ref name="HL1">{{Chú thích web|url=https://web.archive.org/web/20160206132828/http://hopluu.net/p128a1918/3/vai-van-nan-lich-su-the-ky-xx-ho-chi-minh-nha-ngoai-giao-1945-1946|tác giả=Vũ Ngự Chiêu|tiêu đề=Vài vấn nạn lịch sử thế kỷ XX: Hồ Chí Minh—Nhà ngoại giao, 1945-1946|nhà xuất bản=Hợp Lưu Magazine. Ghi chú: Xem tài liệu bằng tiếng Pháp, từ Centre des archives d'Outre-mer [CAOM] (Aix)/Gouvernement General de l'Indochine [GGI]/Fonds Residence Superieure d'Annam [RSA]/carton R1, và ghi chú bằng tiếng Anh ở cuối bài báo||ngày truy cập = ngày 12 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref name="HL2">{{Chú thích web|url=http://www.hopluu.net/D_1-2_2-117_4-1513/|tác giả=Nguyễn Vĩnh Châu|tiêu đề=Phỏng vấn sử gia Vũ Ngự Chiêu về những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh|nhà xuất bản=Hợp Lưu Magazine|ngày truy cập = ngày 12 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref name="BBC2005">{{Chú thích web | url = https://web.archive.org/web/20141109193713/http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/printable/050808_trongcoi.shtml |tác giả=Trần Quốc Vượng|tiêu đề=Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh|nhà xuất bản=BBC Vietnamese|ngày truy cập = ngày 12 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref name="BTHCM">{{Chú thích web|url=http://baotanghochiminh.vn/TabId/495/ArticleId/271/PreTabId/465/Default.aspx|tiêu đề=Sự kiện: Nguyễn Tất Thành với tên gọi Nguyễn Sinh Côn có thể được nhận vào Trường Quốc học Huế|nhà xuất bản=Bảo tàng Hồ Chí Minh|ngày truy cập = ngày 1 tháng 4 năm 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://vov.vn/Xa-hoi/Ve-bo-sach-Quoc-hoc-Hue-xua-va-nay/278485.vov|tiêu đề=Về bộ sách "Quốc học Huế xưa và nay"|nhà xuất bản=Đài tiếng nói Việt Nam|ngày truy cập = ngày 1 tháng 4 năm 2014 |trích dẫn=Trường Quốc học Huế mãi mãi còn ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều thầy và trò của trường: Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh)...}}</ref> Điều này cũng được chính Minhông xác nhận bằng chính bút tích của mình trong một bài viết năm [[1954]].<ref>''Hồ Chí Minh - Tiểu sử'', chương I: Thời niên thiếu (1890-1911), [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], 2008.</ref> Quê nội ông là làng Kim Liên ([[tên Nôm]] là làng Sen). Nguyễn Sinh Cung được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù ([[tên Nôm]] là làng Chùa (Hoàng Trù), nằm cách làng Sen khoảng 2&nbsp;km) và sống ở đây cho đến năm [[1895]]. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện [[Nam Đàn]]. Quê nội của ông, làng Kim Liên<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 6 cho biết làng Kim Liên cũng như làng Hoàng Trù nằm gần (trong khoảng bán kính 20-30 km) với quê hương của nhiều nhân vật trong [[lịch sử Việt Nam]] như:
* Rú Đụn - quê của [[Mai Hắc Đế]],
* Vùng Đông Thái - quê của [[Phan Đình Phùng]],
Dòng 160:
* Cách làng Kim Liên một cánh đồng là quê Đan Nhiệm của [[Phan Bội Châu]],
* Rú Mượu - quê của tổ tiên [[Nguyễn Huệ]] (Quang Trung),
* Ngoài ra, Kim Liên gần với quê quán của một số nhân vật như [[Trần Phú]], [[Lê Hồng Phong]], [[Phạm Hồng Thái]] và nơi sinh trưởng của [[Nguyễn Thị Minh Khai]].</ref> là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố.<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 10.</ref> Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, trang 12, 13 cho biết ông [[Hoàng Xuân Hành]] (còn được gọi là cố Cháu) là chú ruột của bà [[Hoàng Thị Loan]], đã từng theo [[Hoàng Hoa Thám|Đề Thám]] ([[Hoàng Hoa Thám]]) đánh Pháp, sau bị bắt khi tham gia vũ trang ở [[Nghệ An]] và bị đày đi [[Côn Đảo]].</ref>
 
Cha của Nguyễn Sinh Cung là một [[nhà Nho]] tên là [[Nguyễn Sinh Sắc]] ([[1862]]–[[1929]]), từng đỗ [[Phó bảng]].<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004 cho biết ông [[Nguyễn Sinh Sắc]] là một trong 24 người đỗ đại khoa của khoa thi năm [[1901]] (khoa này chỉ lấy [[tiến sĩ]] và [[phó bảng]]). Sau khi Nguyễn Ái Quốc tới [[Quảng Châu, Trung Quốc|Quảng Châu]] (năm [[1924]]), Nguyễn Sinh Sắc có nhận được tin, biết Nguyễn Ái Quốc là con mình và có lần nhắm thăm.</ref> Mẹ ông [[Hoàng Thị Loan]] ([[1868]]–[[1901]]). Nguyễn Sinh Cung có một người chị là [[Bạch Liên nữ sĩ|Nguyễn Thị Thanh]] (sinh năm [[1884]]), một người anh là [[Nguyễn Sinh Khiêm]] (sinh năm [[1888]], tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận ([[1900]]–[[1901]], tên khi mới lọt lòng là Xin).
<!--Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày [[19 tháng 5]] năm [[1890]], tuy nhiên cũng có những thông tin khác không đồng nhất:{{cần dẫn chứng}}
* Trong đơn xin học Trường Hành chính thuộc địa, năm [[1911]], ông tự ghi là sinh năm 1892.
Dòng 170:
 
===Tuổi trẻ===
Năm [[1895]], Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào [[Huế]] lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất ([[1901]]), thìông về [[Nghệ An]] ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên ''Nguyễn Tất Thành''. Tất Thành theo học [[Cử nhân (học vị)|cử nhân]] [[Hoàng Phạm Quỳnh]] và một số ông giáo khác.<ref>Học trò của Hoàng Phạm Quỳnh có khoa thi đỗ sáu [[cử nhân]], mười hai [[Sinh đồ|tú tài]]. Tất Thành "ham đọc sách [...] nhưng ham nhất là các loại sách như [[Tam quốc chí|Tam Quốc Chí]] hay [[Tây du ký|Tây Du]] [...] văn bài thì Thành không thích làm nhưng rất hay hỏi nghĩa [...] một ông đồ [...] sau khi dạy chú mấy tháng đã không dạy nữa".<br />Nguồn: ''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, tr. 25.</ref>
 
Năm [[1906]], Nguyễn Sinh Cung theo cha vào [[Huế]] lần thứ hai và học ở [[trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba|Trường Tiểu học Pháp-Việt Đông Ba]]. Tại đây, ông trải qua các niên khóa [[1906]]-[[1907]] lớp nhì và [[1907]]-[[1908]] lớp nhất. Trong kỳ thi ''primaire'' (tương đương tốt nghiệp tiểu học) năm [[1908]] – ông là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường Pháp – Việt Đông Ba được thi vượt cấp vào hệ Thành chung trường Quốc Học.<ref>[http://baothuathienhue.vn/mot-bieu-tuong-van-hoa-hue-a1600.html Một biểu tượng văn hóa Huế], Báo điện tử Thừa Thiên - Huế, 19/5/2011.</ref>
 
Theo nghiên cứu của học giả William J. Duiker, vào tháng 9 năm [[1907]], Nguyễn Sinh Cung vào học lớp trung học đệ nhị niên tại trường [[Trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học|Quốc học Huế]], nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm [[1908]] vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.<ref>Duiker, tr. 37.</ref> Cha Cungông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em [[Nguyễn Sinh Khiêm|Tất Đạt]] và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. CungÔng quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.<ref>[http://thainguyen.edu.vn/Thanhvien/ttgdtxphoyen/3218/12178/Than-the-va-su-nghiep-cua-Bac-Ho.aspx Thân thế và sự nghiệp của Bác Hồ]</ref> Tuy nhiên, theo tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (''Centre des archives d'Outre-mer'' hay ''CAOM'') ở [[Pháp]], Nguyễn Sinh Cung được nhận vào Quốc học Huế vào ngày [[7 tháng 8]] năm [[1908]].<ref name="BTHCM"/><ref name=HL1/><ref name=autogenerated2>{{Chú thích web|url=http://www.hopluu.net/D_1-2_2-117_4-1513/|tác giả=Nguyễn Vĩnh Châu|tiêu đề=Phỏng vấn sử gia Vũ Ngự Chiêu về những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh|work=Hợp Lưu Magazine|ngày truy cập=ngày 10 tháng 12 năm 2013}}</ref> Theo nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Ngự Chiêu thì như vậy "không có việc Nguyễn Sinh Cung bị trục xuất khỏi trường Quốc học vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở [[Huế]] — cuộc biểu tình chống sưu dịch xảy ra ngày 9 tới 12 tháng 4 năm [[1908]]; tức gần 4 tháng trước ngày trò Cung được nhận vào [[Trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học|trường Quốc học]]".<ref name=HL1/>
 
Đầu năm [[1910]], Nguyễn Tất Thành đến [[Phan Thiết]],. Ông dạy thể dục và [[chữ Quốc ngữ]] cho học sinh lớp ba và tư tại [[trường Dục Thanh]] của [[Công ty Liên Thành|Hội Liên Thành]].<ref>Hội Liên Thành là một tổ chức do các sĩ phu yêu nước [[Bình Thuận]] thành lập, bao gồm ''Liên Thành Thư Xã'' để truyền bá tư tưởng yêu nước, ''Liên Thành Thương Quán'' để gây quỹ hoạt động và ''Dục Thanh Học Hiệu'' để giáo dục tinh thần yêu nước theo mô hình [[Đông Kinh Nghĩa Thục|Đông Kinh nghĩa thục]]. Thời kỳ dạy ở trường, ông vẫn ăn vận theo lối dân tộc "[...] bận một bộ bà ba kiểu Sài Gòn [...] và đi guốc".</ref><ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, tr. 38. Các chi tiết là của bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, người từng trực tiếp học Hồ Chí Minh.</ref>
 
Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc và có chí đuổi [[thực dân Pháp]], giải phóng [[đồng bào]]. TuyÔng tuy khâm phục [[Hoàng Hoa Thám|Đề Thám]] ([[Hoàng Hoa Thám]]), [[Phan Châu Trinh]], [[Phan Bội Châu]] nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Theo quan điểm của bản thânông, [[Phan Châu Trinh]] chỉ yêu cầu [[người Pháp]] thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào "xin giặc rủ lòng thương", còn [[Phan Bội Châu]] thì hy vọng [[Đế quốc Nhật Bản]] giúp đỡ để chống [[Pháp]], điều đó nguy hiểm chẳng khác nào "đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau". Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình.<ref name="trandantien">[[Trần Dân Tiên]], ''Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'', [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], năm 1994, tr. 12.</ref>
 
Khoảng trước tháng 2 năm [[1911]], ông nghỉ dạy và vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, Nguyễn Tất Thành theo học [[Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng|trường Bá Nghệ]] là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son (bây giờ là [[trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng]]), vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và đồng thời tìm hiểu đời sống công nhân.<ref>[http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2011/3756/Tu-thanh-pho-nay-Nguoi-da-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc.aspx Phạm Bá Nhiễu, ''Từ thành phố này Người đã ra đi tìm đường cứu nước'', Tạp chí Xây dựng Đảng ngày 5-6-2011]</ref><ref>[http://laodong.com.vn/Van-hoa/Noi-Bac-Ho-o-truoc-khi-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/93.bld Thùy Ân, ''Nơi Bác Hồ ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước'', Báo Lao động Online ngày 19-05-2011]</ref><ref>[http://www.baovanhoa.vn/Moicauchuyenlamotbaihoc/36084.vho "Từ thành phố này Người đã ra đi…", ''Báo Văn hóa'' - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch]</ref> Ở đây, ông học được 3 tháng. thì sauSau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của [[Thế giới phương Tây|phương Tây]].<ref>Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 1995, tập1, trang 477, trích bài phỏng vấn Hồ Chí Minh của nhà báo [[Liên Xô]] Osip Mandelstam: ''"Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ [[Pháp]]: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là [[người Pháp]]. Người Pháp đã nói thế... Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả [[Jean-Jacques Rousseau|Rousseau]] và [[Montesquieu]] cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài".''</ref><ref>Trần Dân Tiên, ''Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'', Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 1994, tr. 12, trích: ''"Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta".''</ref>
 
===Hoạt động ở nước ngoài===
Dòng 188:
 
====Thời kỳ 1911-1919====
Ngày [[5 tháng 6]] năm [[1911]], từ [[Bến Nhà Rồng]], Nguyễn Tất Thành lấy tên '''Văn Ba''' lên đường sang [[Pháp]] với nghề phụ bếp trên chiếc [[Amiral Latouche-Tréville|tàu buôn ''Đô đốc Latouche-Tréville'']], với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước [[Thế giới phương Tây|phương Tây]]. Ngày [[6 tháng 7]] năm [[1911]], sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng [[Marseille]], Pháp. Tại Marseilles, ông đã viết thư đến Tổng thống [[Pháp]], xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (''École Coloniale''), trường chuyên đào tạo các nhân viên hành chánh cho chính quyền thực dân, với hy vọng ''"giúp ích cho Pháp"''. Thư yêu cầu của ông bị từ chối và được chuyển đến [[Khâm sứ Trung Kỳ]] ở Huế.<ref>{{Chú thích web|url=http://books.google.com.vn/books?id=XPMt03ckruUC&pg=PA262&lpg=PA262&dq=ecole+coloniale+ho+chi+minh&source=bl&ots=6dzTtFiG-9&sig=jXUsWTi9TukO185KQUzAA1_jWNk&hl=en&sa=X&ei=89fvUPjPC6Xu2QXKq4CgAQ&ved=0CD4Q6AEwAg#v=onepage&q=1911&f=false|tiêu đề=Ho Chi Minh: The Missing Years|tác giả=Sophie Quinn-Judge|các trang=24|nhà xuất bản=University of California Press|năm=2002}}</ref>
 
Ở Pháp một thời gian, sau đó Nguyễn Tất Thành qua [[Hoa Kỳ]]. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối [[1912]]-cuối [[1913]]), ông đến nước [[Anh]] làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn, học [[tiếng Anh]], và ở [[Luân Đôn]] cho đến cuối năm [[1916]].<ref name="press%2Eprinceton%2Eedu">[http://assets.press.princeton.edu/chapters/pons/s4_9143.pdf Ho Chi Minh], Sophie Quinn Judge, Princeton University Press</ref> Một số tài liệu trong kho lưu trữ của [[Pháp]] và [[Nga]] cho biết trong thời gian sống tại [[Hoa Kỳ]], Nguyễn Tất Thành đã đến nghe [[Marcus Garvey]] diễn thuyết ở khu [[Harlem]] và tham khảo ý kiến của các​​các nhà hoạt động vì nền độc lập của [[Triều Tiên]].<ref name="press%2Eprinceton%2Eedu"/> Cuối năm [[1917]], ông trở lại nước [[Pháp]], sống và hoạt động ở đây cho đến năm [[1923]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.baodatviet.vn/Home/congdongviet/100-nam-ngay-Bac-Ho-toi-Phap/20115/144940.datviet|tiêu đề=100 năm ngày Bác Hồ tới Pháp|ngày truy cập=ngày 11 tháng 12 năm 2011|url lưu trữ=http://web.archive.org/web/20110519132934/http://www.baodatviet.vn/Home/congdongviet/100-nam-ngay-Bac-Ho-toi-Phap/20115/144940.datviet|ngày lưu trữ=ngày 19 tháng 5 năm 2011}}</ref>
 
====Thời kỳ ở Pháp====
Dòng 199:
Tuy nhiên, Hội nghị Versailles đã không đếm xỉa gì đến việc giải quyết quyền lợi cho người dân các nước thuộc địa. Các nước thắng trận ([[Anh]], [[Pháp]], [[Mỹ]]) chỉ lo phân chia thuộc địa và các món lợi kinh tế giành được từ các nước bại trận. Trong khi đó, tại nước [[Nga]] Xô viết sau [[Cách mạng Tháng Mười]] năm [[1917]], [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] đã ban hành sắc lệnh quy định về sự bình đẳng giữa các dân tộc, trao trả độc lập cho các thuộc địa của [[Đế quốc Nga]] cũ. Điều này đã đẩy niềm tin của Nguyễn Tất Thành sang [[chủ nghĩa cộng sản]].<ref name=":0" />
 
Năm [[1920]], Nguyễn Ái Quốc đọc ''Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa'' của [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]], từ đó ông hoàn toàn tin tưởng vào [[chủ nghĩa cộng sản]],.<ref>{{Chú thích web|url=https://archive.is/20130421230715/www.truongchinhtritohieuhp.gov.vn/index.php/nghien-cuu-khoa-hoc/noi-san/341-s-42011/15737-con-duong-nguyen-ai-quoc-den-voi-chu-nghia-mac-lenin|tiêu đề=Con đường Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác- Lênin|website=Trường Chính trị Tô Hiệu Hải Phòng}}</ref> Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của [[Đảng Xã hội (Pháp)|Đảng Xã hội Pháp]] tại [[Tours]] (từ 25 đến [[30 tháng 12]] năm [[1920]]) với tư cách là đại biểu [[Đông Dương]] của [[Đảng Xã hội (Pháp)|Đảng Xã hội Pháp]], ông trở thành một trong những sáng lập viên của [[Đảng Cộng sản Pháp]] và tách khỏi đảng Xã hội,. Ông nói với các đại biểu của Đảng Xã hội Pháp: ''"Tôi không hiểu bất cứ điều gì về chiến lược, thủ thuật hành động và tất cả những từ ngữ đao to búa lớn mà các ông dùng, nhưng tôi hiểu một điều rất đơn giản: [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế thứ 3]] quan tâm rất nhiều tới vấn đề thuộc địa. Các đại biểu của Quốc tế thứ 3 hứa sẽ giúp các dân tộc thuộc địa đang bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Các thành viên của [[Đệ Nhị Quốc tế|Quốc tế thứ 2]] không nói một từ về số phận của các vùng thuộc địa".''<ref name=":0" />
[[Tập tin:AnhNAQ1.jpg|nhỏ|phải|250px|Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ ''[[Người cùng khổ|Le Paria]]'', đời sống người dân dưới ách thống trị của [[thực dân Pháp]].]]
Năm [[1921]], ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa [[Pháp]] lập ra [[Hội Liên hiệp Thuộc địa]] (''Union intercoloniale – Association des indigènes de toutes les colonies'') nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống [[chủ nghĩa đế quốc]]. Năm [[1922]], Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo ''[[Người cùng khổ|Le Paria]]'' (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của [[chủ nghĩa đế quốc]] nói chung và [[thực dân Pháp]] nói riêng. Tác phẩm "[[Bản án chế độ thực dân Pháp]]" bằng tiếng Pháp (''Procès de la colonisation française'') do ông viết được xuất bản năm [[1925]] do Nguyễn Ái Quốc viết, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
 
====Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất====
[[Tập tin:Nguyễn Ái Quốc.jpg|nhỏ|phải|150px|Nguyễn Ái Quốc, chụp tại [[Liên Xô]] năm 1923.]]
Nguyễn Ái Quốc đến [[Liên Xô]] lần đầu tiên vào năm [[1922]] tham gia Đại hội lần thứ tư của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]], ở đó ông gặp Lenin và trở thành thành viên của Ban [[Đông Nam Á]] của Quốc tế Cộng sản.<ref name=":0" />
 
Tháng 6 năm [[1923]], ông đến [[Moskva]] học tập tại [[trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông]], được đào tạo chính quy về [[Chủ nghĩa Marx]], tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang.<ref name=":0" /> Tại đây Nguyễn Ái Quốc đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày [[12 tháng 10|12]] đến ngày [[15 tháng 10]] năm [[1923]]), ông được bầu vào Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 [[Đệ Tam Quốc tế]] (họp từ ngày [[17 tháng 6]] đến ngày [[8 tháng 7]] năm [[1924]]), ông được cử làm Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
 
Năm [[1924]], tại thành phố [[Moskva]], Nguyễn Ái Quốc viết và nộp cho tổ chức [[Đệ Tam Quốc tế]] một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ,. Nhận thấy phong trào [[đấu tranh giai cấp]] tại [[Việt Nam]] có sự khác biệt với phong trào [[đấu tranh giai cấp]] bên [[Thế giới phương Tây|Tây phương]] đương thời, đãông có nhận xét về các tầng lớp địa chủ, tăng lữ,... của Việt Nam như sau:
{{cquote|
''Những địa chủ ở đây chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở [[châu Âu]] và [[châu Mỹ]] (…). Không có vốn liếng gì lớn…, đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa", "[[An Nam]] chưa bao giờ có tăng lữ…"''|||Nguyễn Ái Quốc<ref name="mqt"/>
}}
Nguyễn Ái QuốcÔng cho rằng:<ref name="mqt"/>
{{cquote|
''[[Chủ nghĩa dân tộc]] là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm [[1908]], nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn [[An Nam]] cạnh tranh với [[người Pháp]] và [[người Trung Quốc]]; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang [[Nhật Bản]] và làm vua [[Duy Tân]] mưu tính khởi nghĩa năm [[1917]].''|||Nguyễn Ái Quốc
}}
 
Tư tưởng này của ông không có gì mâu thuẫn với ''Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa'' của [[Lenin]], khi lấy [[chủ nghĩa dân tộc]] để đi đến [[chủ nghĩa cộng sản]] (đại đồng). Tuy nhiên, một số người [[châu Âu]] trong [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] không quan tâm tới quan điểm này của Nguyễn Ái Quốc, người họ cho rằng ông quá chú trọng đến vấn đề dân tộc mà coi nhẹ phong trào cách mạng chung trên thế giới.
 
====Thời kỳ ở Trung Quốc (1924–1927)====
Sau khi học tại [[Liên Xô]], cuối năm [[1924]], Nguyễn Ái Quốc rời [[Liên Xô]] tới [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]] theo phái đoàn cố vấn của chính phủ [[Liên Xô]] do [[Mikhail Markovich Borodin]] làm trưởng đoàn đến giúp chính phủ [[Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)|Trung Hoa Dân quốc]] của [[Tưởng Giới Thạch]], làm phiên dịch lấy tên là '''Lý Thụy'''.
 
ThờiTrong thời gian ở [[Trung Quốc]], ông với nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến tư tưởng cách mạng ra vùng Đông Phương,. theoTheo đó, năm [[1925]], Nguyễn Ái Quốcông tập hợp Việt kiều và thành lập tổ chức [[Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên|Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội]] ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá [[chủ nghĩa Marx-Lenin]] (thường được phiên âm là ''Mác–Lê-nin'') vào [[Việt Nam]]. Cuốn ''[[Đường kách mệnh|Đường Kách mệnh]]'', mà Nguyễn Ái Quốcông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm [[1927]].<ref>Gabriel Kolko, ''Giải phẫu một cuộc chiến tranh'' (dịch giả: Nguyễn Tấn Cưu), [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân]], Hà Nội, 2003, trang 30-31.</ref>
 
Cùng năm [[1925]], Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do [[Liêu Trọng Khải]], một cộng sự thân tín của [[Tôn Dật Tiên]], làm Hội trưởng và Nguyễnông làm Bí thư. Tổ chức này sau đó trở thành Đảng Cộng sản Nam Hải (the South Seas Communist party),<ref name="nytimes%2Ecom">[http://www.nytimes.com/learning/general/onthisday/bday/0519.html Ho Chi Minh Was Noted for Success in Blending Nationalism and Communism, Alden Whitman, The New York Times,ngày 4 tháng 9 năm 1969]</ref> tiền thân của một loạt các tổ chức cộng sản sau này, bao gồm có cả [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]]. Trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc cũng gửi một loạt [[người Việt]] đi học trường quân sự của [[Tưởng Giới Thạch]] tại [[Quảng Châu]], đồng thời tiến hành một khóa đào tạo về khởi nghĩa vũ trang. Do [[Tưởng Giới Thạch]] khủng bố các nhà cách mạng cộng sản [[Trung Quốc]] và [[Việt Nam]], Nguyễnông rời [[Quảng Châu]] đi [[Hồng Kông]], rồi thoát sang [[Liên Xô]] theo đường [[sa mạc Gobi]]. Tháng 11 năm [[1927]], thìông được cử đi [[Pháp]], rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại Hội đồng của Liên đoàn Chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày [[12 tháng 12]] năm [[1927]] tại [[Bruxelles|Brussel]], [[Bỉ]].
 
====Thời kỳ ở Thái Lan (1928–1929)====
Dòng 232:
Tập tin:House HoChiMinh stayed@NakhonPhanom.jpg|Căn nhà ở Ban Nachok, [[Nakhon Phanom]], [[Thái Lan]], nơi Hồ Chí Minh từng ở.
</gallery></center>
Mùa thu [[1928]], Nguyễn Ái Quốc từ [[châu Âu]] đến [[Xiêm|Xiêm La]] (Thái Lan), cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh '''Thầu Chín''' để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo gửi về nước. Cuối năm [[1929]], thìông rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang [[Trung Quốc]].<ref>[http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=20225&cn_id=461573 Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh], Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 27 tháng 05 năm 2011.</ref>
 
====Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ====
Ngày [[3 tháng 2]] năm [[1930]], tại Cửu Long (九龍, ''Kowloon'') thuộc [[Hồng Kông]], theo chỉ thị của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]], nhằm giải quyết những mâu thuẫn hiện có giữa những người cộng sản [[Đông Dương]], Nguyễn Ái Quốcông đã thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương thành [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] (sau đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi "Đảng Lao động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam"). Cũng vào năm này, khởi nghĩa [[Xô Viết Nghệ Tĩnh|Xô viết Nghệ Tĩnh]] do Đảng Cộng sản chỉ đạo nổ ra nhưng thất bại. [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] bị cấm hoạt động, đồng thời Nguyễn Ái Quốc bị xử [[tử hình]] vắng mặt.
 
Tháng 3 năm [[1930]], Nguyễn Ái Quốc trở lại Xiêm trong một thời gian ngắn, rồi ông quay lại [[Trung Quốc]].
 
====Những năm 1931–1933====
Năm [[1931]], dưới tên giả là '''Tống Văn Sơ''' (''Sung Man Ch'o''), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền [[Hồng Kông]] bắt giam với ý định trao cho chính quyền [[Pháp]] ở [[Đông Dương]]. Tờ ''[[L'Humanité]]'' (Nhân đạo) số ra ngày [[9 tháng 8]] năm [[1932]] đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh [[lao phổi]] trong trạm xá nhà tù tại [[Hồng Kông]], đồng thời tố cáo đây là âm mưu của [[thực dân Pháp]] câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]].<ref name=huma32>Nguyen Ai Quoc, le vaillant fondateur du P.C. indochinois est mort emprisonné, ngày [[9 tháng 8]] năm [[1932]], ''[[L'Humanité]]''.</ref>
 
Sau đó, nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư [[Frank Loseby]],<ref><!-- Xử án Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng, http://www.vnn.vn/thuhanoi/2005/05/433609/ -->[http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/nguoi-da-vuot-qua-hoan-nan-nho-kha-nang-nhap-vai Người đã vượt qua hoạn nạn nhờ khả năng nhập vai], Lady Borton (Thanh Hảo dịch từ bản tiếng Anh) [[vietnamnet]] 19/05/2005 09:32.</ref> Tống Văn Sơ được thả ngày [[28 tháng 12]] năm [[1932]],. Ông đi [[Thượng Hải]] rồi bí mật quay trở lại [[Liên Xô]].
 
====Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ hai====
Nguyễn Ái Quốc đến [[Moskva]] vào mùa xuân năm [[1934]]. Với bí danh '''Lin''', Nguyễn Ái Quốc học ở [[Trường Quốc tế Lenin]] ([[1934]]–[[1935]]). Sau đó dưới tên ''Linov'', ông dự Đại hội lần thứ 7 [[Đệ Tam Quốc tế]] (từ [[25 tháng 7]] đến [[20 tháng 8]] năm [[1935]]) với vai trò quan sát viên của Ban Thư ký Dalburo.<ref>Duiker, tr. 224.</ref> Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị Ban Lãnh đạo Hải ngoại của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] viết thư gửi [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] kết tội phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 đảng viên của ''Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên'' bị bắt, do việc ông biết [[Lâm Đức Thụ]] trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.<ref>Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, ''Tạp chí Xưa và Nay'' số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử học Việt Nam, trang 4, trích ''"Một loạt dấu hỏi về vụ án [[Hương Cảng]]: Vì sao chịu án phạt nhẹ, bằng con đường nào để đến được [[Liên Xô]]… Đặc biệt bức thư của Ban Lãnh đạo Hải ngoại [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] viết ngày [[20 tháng 4]] năm [[1935]] gửi [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] cung cấp những thông tin cực kỳ nguy hiểm về Nguyễn Ái Quốc. Nội dung thư kết tội Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn một trăm đảng viên của Đảng Cách mạng Thanh Niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết [[Lâm Đức Thụ]] trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng, Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của hai đến mười bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và [[Lâm Đức Thụ]] yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trước đây bị phê bình gay gắt trong các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Xiêm – người học trò trung thành của Nguyễn Ái Quốc, một trong nhiều người nói rằng, trước năm [[1930]] Nguyễn Ái Quốc chưa phải là đảng viên Đảng Cộng sản. Trong thư còn nói về sai lầm của Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ chức cộng sản vào năm [[1930]], yêu cầu Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất cần viết cuốn sách tự chỉ trích những sai lầm về chính trị của mình".''</ref> Nguyễn Ái QuốcÔng bị buộc phải ở [[Liên Xô]] cho đến năm [[1938]], bị giam lỏng vì nghi ngờ lý do mìnhông được nhà cầm quyền [[Hồng Kông]] trả tự do.<ref>Duiker, tr. 213.</ref> [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] thành lập Ban Thẩm tra vì nghi ngờ sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc nhưng không tìm ra chứng cứ cho thấy điều này, nên hồ sơ vụ việc đã được Ban Thẩm tra quyết định hủy bỏ.<ref>Ban Thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, ''Tạp chí Xưa và Nay'' số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử học Việt Nam, trang 6, trích ''"Tháng 02-1936 Ban Thẩm tra được thành lập, lúc đầu, có hai ý kiến bút phê của lãnh đạo [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]]: Ý kiến 1, đề nghị Ban Thẩm tra có các đồng chí: 1. Manuinxki, 2. Krapxki, 3. Hải An, 4. Vương Minh, 5. Barixta, 6. Raimốp. Ý kiến 2, đề nghị gồm các đồng chí: 1. Cônxinna, 2. Hải An, 3. Krapxki, 4. Barixta, 5. Xtipannốp. Đến ngày 19-02-1936, do có nhiều lý do khác nhau, thành phần Ban Thẩm Tra chỉ có các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki. Ban Thẩm tra nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau: 1. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động bí mật. Ban Thẩm tra yêu cầu đồng chí từ nay không để xảy ra những trường hợp tương tự. Đề nghị đồng chí rút kinh nghiệm bài học này trong hoạt động bí mật sau này. 2. Ban Thẩm tra không tìm ra chứng cứ nghi ngờ nào về sự trung thành chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. 3. Hồ sơ vụ việc về Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ. Bản kết luận đã được Krapxki và Hải An ký".''</ref> Sau đó, Nguyễn Ái Quốcông tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]].<ref>Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, ''Tạp chí Xưa và Nay'' số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử học Việt Nam, trang 6, trích ''"Sau kết luận của Ban Thẩm tra, tưởng chừng vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được giải quyết xong. Nào ngờ, đến tháng 01-1938, khi Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu Các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa, ban lãnh đạo Viện đề nghị Vụ Tổ chức Cán bộ [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] xác minh việc Nguyễn Ái Quốc ra khỏi tù và vào [[Liên Xô]] như thế nào. Trong thư trả lời Viện Nghiên cứu, Vụ Tổ chức Cán bộ khẳng định: Để giải quyết vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ban Thẩm tra và đi đến kết luận về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc; đồng thời đồng chí Radumopva đã trực tiếp gặp Vaillant Couturier và được khẳng định chuyến trở về [[Liên Xô]] là do Vaillant tổ chức; hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm tra quyết định hủy bỏ. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc mới được tiếp nhận làm nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu Các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa.''"</ref>
 
Trong những năm [[1931]]–[[1935]], Nguyễn Ái Quốc bị [[Trần Phú]] và sau đó là [[Hà Huy Tập]] phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối [[đấu tranh giai cấp]] của [[Đệ Tam Quốc tế]].<ref>Sophie Quinn-Judge, ''Ho Chi Minh, the missing years, 1919-1941'', 2002, C. Hurst & Co, tr. 253.</ref><ref>Duiker, tr. 218.</ref> Trong một bức thư gửi cho tổ chức [[Đệ Tam Quốc tế]] vào tháng 3 năm [[1935]] với nội dung kể về phong trào cách mạng tại [[Đông Dương]], Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về ''"tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, [[chủ nghĩa duy tâm]] của đảng của các đồng chí ''Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên'' và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc"''. Trong thư này cũng có đoạn: ''"Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển [[chủ nghĩa cộng sản]]. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết (…). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua"''.<ref name="mqt">[http://phapluattp.vn/20100517023132446p0c1013/tinh-than-dan-toc-o-chu-tich-ho-chi-minh.htm Tinh thần dân tộc ở Chủ tịch Hồ Chí Minh], có dẫn nguồn ''Hồ Chí Minh - Con người của Sự sống'', GS-TS Mạch Quang Thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009</ref>
 
Sở dĩ có việc phê phán này là do bất đồng giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí của ông về các lực lượng tham gia, cần tranh thủ trong hoạt động cách mạng, dẫn đến suy nghĩ cho rằng Nguyễn Ái Quốc ưu tiên giải phóng dân tộc hơn là [[đấu tranh giai cấp]]. Vào thời điểm đó, [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] dưới sự lãnh đạo của [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]], đặt đấu tranh giải phóng dân tộc đi cùng với [[đấu tranh giai cấp]].
 
Trong giai đoạn này, [[Trần Phú]], [[Lê Hồng Phong]], [[Hà Huy Tập]] lần lượt làm [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Tổng Bí thư]] [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] còn Hồ Chí Minh chỉ đảm nhiệm công tác liên lạc giữa [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]] và các đảng cộng sản tại [[Đông Nam Á]].<ref>[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/09/130925_ho_chi_minh_vu_thu_hien.shtml 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh], Vũ Thư Hiên, BBC tiếng Việt, thứ tư, 25 tháng 9 năm 2013.</ref>
 
====Trở lại Trung Quốc (năm 1938 đến đầu năm 1941)====
Năm [[1938]], ông trở lại [[Trung Quốc]]. trongTrong vai Thiếu tá [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc|Bát lộ quân]] tên là '''Hồ Quang''', Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát lộ quân [[Quế Lâm, Quảng Tây|Quế Lâm]], sau đó đi [[Quý Dương (thành phố)|Quý Dương]], [[Côn Minh]] rồi đến [[Diên An]], căn cứ đầu não của [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] và [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc|Hồng quân Trung Quốc]] mùa đông [[1938]] đến đầu năm [[1939]].<ref>[http://www.baotanghochiminh.vn/TabId/495/ArticleId/1222/PreTabId/503/Default.aspx Hồ Chí Minh, 1938], Bảo tàng Hồ Chí Minh.</ref>
 
===Trở về Việt Nam===
Đầu tháng 1 năm [[1941]], [[Hoàng Văn Thụ]], Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ [[Việt Nam]] sang [[Tĩnh Tây]] ([[Quảng Tây]], Trung Quốc) gặp Nguyễn Ái Quốc để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố An toàn khu [[Cao Bằng]]. Hoàng Văn Thụ đề nghị người nàyông về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng [[Việt Nam]] qua lối Cao Bằng. Nguyễn Ái Quốc cũng nhận định [[Cao Bằng]] sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng, và ông quyết định trở về nước sau 30 năm ở nước ngoài.<ref name=qdnd>[http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/bai-1-bac-da-ve-day-to-quoc-oi/136932.html Bài 1: Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
Nguyễn Ái QuốcÔng trở về [[Việt Nam]] vào ngày [[28 tháng 1]] năm [[1941]],<ref>Bài ''[http://dukhach.caobang.gov.vn/node/137 Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó]'' trên Cổng thông tin điện tử Cao Bằng cho biết ông qua biên giới tại địa phận xã Trường Hà, huyện [[Hà Quảng]], tỉnh [[Cao Bằng]], tại cột mốc số 108.</ref> với hành lý là một chiếc vali nhỏ đan bằng mây tre để đựng quần áo và một chiếc máy chữ xách tay. Khi vừa đặt chân lên lãnh thổ tổ quốc, đãông cầm lên và hôn vào một nắm đất. Nhà thơ [[Tố Hữu]] đã viết về sự kiện này qua bốn câu thơ:
:''"Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!''
:''Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người.''
Dòng 265:
:''Mà đến bây giờ mới tới nơi"''.<ref name=qdnd/>
 
Sau khi hỏi thăm dân địa phương, ngày [[8 tháng 2]] năm [[1941]], Nguyễn Ái Quốc tới ở tại hang Cốc Bó, bản [[Hang Pác Bó|Pác Bó]], tỉnh [[Cao Bằng]] với bí danh '''Già Thu''',. gọi dòngDòng suối lớn chảy qua đây được ông gọi là [[Suối Lê Nin|suối Lê-nin]], ngọn núi đá cao được gọi là [[Karl Marx|núi Các-Mác]]. NgườiÔng ấyđã làm một bài thơ (nay đã được tạc vào vách núi) thể hiện chí hướng:<ref>[http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su/bai-2-day-suoi-le-nin-kia-nui-mac/136959.html Bài 2: Đây suối Lê-nin, kia núi Mác<!-- Bot generated title -->]</ref>
:''Non xa xa nước xa xa,''
:''Nào phải thênh thang mới gọi là.''
:''Đây suối Lê-nin, kia núi Mác,''
:''Hai tay gây dựng một sơn hà''.
Tại đây, Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện cán bộ,<ref>Theo ''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, có những lớp chỉ huấn luyện trong vài ngày với vài ba học viên.</ref> cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do chính người ấyông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy Nguyễn Ái Quốcông ghi ''"Việt Nam độc lập năm 1945"''.<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, phần kể của [[Vũ Anh]].</ref> Một ngườiÔng cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc...
 
Từ ngày 10 đến ngày [[19 tháng 5]] năm [[1941]], Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 (mở rộng) của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, [[Cao Bằng]]. Một trong những kết quả của hội nghị này là nghị quyết về việc thành lập ''Việt Nam Độc lập Đồng minh'' ([[Việt Minh]]).<ref>Nguyễn Văn Phùng (trưởng ban biên soạn), ''Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (giáo trình)'', [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], Hà Nội, 2004, trang 96.</ref><ref>[http://www.caobang.gov.vn/wps/wcm/connect/Web+Content/caobang/vietvecaobang/d96f7d004fa0620ea816a815961471d0?presentationtemplate=PT+-+Print&presentationtemplateid=45183700422ff7f1a662be40f0083290 Ngày Thành lập Mặt trận Việt Minh ở Pác Bó (15/05/2013)]</ref>
 
===Từ bị giam ở Trung Quốc cho tới thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa===
Ngày [[13 tháng 8]] năm [[1942]], ông lấy tên '''Hồ Chí Minh''', sang [[Trung Quốc]] với danh nghĩa đại diện của cả [[Việt Minh]] và Hội Quốc tế Phản Xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông lập ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của [[Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)|Trung Hoa Dân quốc]]. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân người nàyông sử dụng tên Hồ Chí Minh, và khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".<ref>Theo ''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, tấm danh thiếp mà ông sử dụng có dòng giữa được ghi tên "Hồ Chí Minh", một bên ghi "Tân văn ký giả" (tức là Nhà báo), một bên ghi "Việt Nam-Hoa kiều".</ref>
 
Hồ Chí Minh bị chính quyền địa phương của [[Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)|Trung Hoa Dân quốc]] bắt giữ ngày [[29 tháng 8]] khi đang đi cùng một [[Người Hán|người Trung Quốc]] dẫn đường và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. MinhÔng viết ''[[Nhật ký trong tù]]'' trong thời gian này (từ [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1942]] đến [[tháng chín|tháng 9]] năm [[1943]]). ''[[Nhật ký trong tù]]'' là một tác phẩm được nhiều tác giả [[người Việt Nam]], người phương Tây và cả [[người Trung Quốc]], như [[Quách Mạt Nhược]], [[Viên Ưng]] hay [[Hoàng Tranh]] đề cao.<ref>[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/05/050520_nhatkytrongtu.shtml Tìm hiểu cuốn Ngục Trung Nhật Ký - BBC Tiếng Việt]</ref> Các đồng chí của ông ([[Phạm Văn Đồng]], [[Võ Nguyên Giáp]], [[Vũ Anh]]...) ở [[Việt Nam]] tưởng lầm là người đóông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ [[Đảng Cộng sản]] tên ''Cáp'' đã nghe và hiểu sai ngữ nghĩa).<ref>Theo ''Bác Hồ - hồi ký'', phần của [[Võ Nguyên Giáp]] và phần của Vũ Anh, trang 268, 218 thì [[Võ Nguyên Giáp]] cho rằng: "có lẽ anh Cáp đã nghe lầm 'sư tờ, sư tờ' (nghĩa là 'phải, phải') thành 'xử la, xử la' (nghĩa là 'chết rồi')". Vũ Anh cho rằng: "đồng chí Cáp nghe nhầm câu 'người đi cùng ông ấy chết rồi' (Hồ Chí Minh khi bị bắt có đi cùng một [[người Trung Quốc]] làm nhiệm vụ dẫn đường) thành 'ông ấy chết rồi'".</ref> Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông ([[Phạm Văn Đồng]] làm văn điếu) cũng như ''"mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm"'' (lời của [[Võ Nguyên Giáp]]). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
 
Ngày [[25 tháng 10]] năm [[1943]], Hội Quốc tế Chống Xâm lược ở [[Đông Dương]] gửi 2 bức thư, một cho Đại sứ Mỹ tại [[Trung Quốc]], bức còn lại cho Thống chế [[Tưởng Giới Thạch]] đề nghị can thiệp trả tự do cho Hồ Chí Minh, đồng thời đại diện của [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] ở [[Trùng Khánh]] đã tiếp xúc bí mật với các sĩ quan [[Cơ quan Tình báo chiến lược|OSS]] ([[Cơ quan Tình báo chiến lược]], [[Mỹ]]) và [[SACO]] để gợi ý rằng có thể khiến Hồ Chí Minh hợp tác với phe [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]].<ref>Why Vietnam?, Archimedes L.A.Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, năm 2008, trang 108, 112.</ref> Sau khi thảo luận với Đại sứ quán Mỹ tại [[Trung Quốc]], OSS và cơ quan ngoại giao Mỹ thương lượng với chính phủ [[Trung Hoa Dân quốc]] để giải thoát Hồ Chí Minh khỏi nhà tù và thuyết phục Minhông cộng tác với OSS.<ref name="Patti113">Why Vietnam?, Archimedes L.A.Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, năm 2008, trang 113.</ref> Cùng lúc đó [[Trương Phát Khuê]], tướng cai quản vùng [[Quảng Đông]] và [[Quảng Tây]] của [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc Dân Đảng]] cũng gây áp lực để buộc "ông Hồ" hoạt động cho Quốc dân Đảng.<ref name="Patti113"/> Hồ Chí Minh được trả tự do ngày [[10 tháng 9]] năm [[1943]], theo yêu cầu của [[Hoa Kỳ]].<ref name="nytimes%2Ecom"/> Có nguồn khác nói rằng tướng [[Trương Phát Khuê]] quyết định trả tự do cho Hồ Chí Minh nhằm lợi dụng người nàyông và một số chính trị gia Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống [[Đế quốc Nhật Bản|phát xít Nhật]].<ref name="taybacuniversity%2Eedu%2Evn">[https://archive.is/20130506154933/www.taybacuniversity.edu.vn:8080/fhg/index.php?option=com_content&view=article&id=333:quan-h-vit-m-1944-1945&catid=25:hot-ng-nghien-cu-khoa-hc-ca-khoa-s-a Quan hệ Việt - Mỹ (1944-1945)<!-- Bot generated title -->]</ref> Trương Phát Khuê hy vọng Hồ Chí Minh có thể thống nhất và tổ chức lại các nhóm người Việt lưu vong ở miền Nam Trung Quốc thành một khối thuần nhất thân [[Trung Quốc]] mà sự chia rẽ, chống đối về phương pháp tiến hành đấu tranh và sự tranh giành quyền lực giữa lãnh tụ của các nhóm này đã che lấp mất mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ đồng thời để chấn chỉnh [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]] (Việt Cách) do Trung Quốc đỡ đầu.<ref>Why Vietnam?, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 113, 114.</ref>
 
Ngay sau đó, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]]. Trước đó, [[Việt Minh]] đã ra tuyên bố ủng hộ tổ chức này. MinhÔng cũng cố gắng tranh thủ sự ủng hộ từ [[Trương Phát Khuê]], nhưng không thành.
 
Cuối tháng 9 năm [[1944]], Hồ Chí Minh trở về [[Việt Nam]]. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như [[Võ Nguyên Giáp]], [[Phạm Văn Đồng]]... đã quyết định tiến hành phát động [[chiến tranh du kích]] trong phạm vi liên tỉnh. Hồ Chí Minh cho rằng chưa đúng thời cơ, và đã ngăn chặn thành công quyết định này.<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 273, phần do Vũ Anh kể lại.</ref> Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. MinhÔng trực tiếp ra [[Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân|chỉ thị thành lập]] một đội quân mang tính chính quy là đội [[Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân]], với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của [[Việt Minh]]. Cuối năm [[1944]], Minhông trở lại [[Côn Minh]] hoạt động cho tới đầu năm [[1945]].
 
Ngày [[29 tháng 3]] năm [[1945]], Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại [[Côn Minh]] (Trung Quốc). Chennault cảm ơn [[Việt Minh]] đã giúp đỡ chống [[Nhật]] và sẵn sàng viện trợ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] chống [[phát xít Nhật]].<ref name="taybacuniversity%2Eedu%2Evn"/> Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy [[Mỹ]] ủng hộ [[Việt Minh]]. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng dù sao Minhông cũng đã đạt được kết quả.<ref name="Patti130">Why Vietnam?, Archimedes L.A.Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, năm 2008, trang 130.</ref>
[[Tập tin:Ho Chi Minh (third from left standing) and the OSS in 1945.jpg|thumb|right|300px|Hồ Chí Minh (hàng đứng, thứ ba từ trái sang), [[Võ Nguyên Giáp]] (hàng đứng, thứ năm từ trái sang) và [[Cơ quan Tình báo chiến lược|OSS]] năm [[1945]].]]
Hồ Chí Minh nhận thấy [[Hoa Kỳ]] đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng [[người Việt]] vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, Minhông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho [[Việt Minh]] làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với [[Nhật Bản]], cung cấp các tin tức tình báo cho OSS, tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho [[Trung Hoa Dân quốc (1912–1949)|Trung Hoa Dân Quốc]] và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ [[Cơ quan Tình báo chiến lược|OSS]] (''U.S Office of Strategic Services'') cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho [[Việt Minh]].<ref name="Henry"/><ref>Maurice Isserman, John Stewart Bowman (2003, 1992), ''Vietnam War'', trang 4-5, ISBN 0-8160-4937-8.</ref>
 
Tháng 7 năm [[1945]], trước khi Hội nghị [[Chiến khu Tân Trào|Tân Trào]] họp vào tháng 8 năm [[1945]], Minhông ốm nặng, tưởng không qua khỏi. Theo lời kể của [[Võ Nguyên Giáp]] thì vào một đêm, Minhông có nói lời như trăng trối rằng ''"...dù có phải đốt cả Trường Sơn, cũng kiên quyết dành cho được độc lập".''<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 284.</ref> Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới [[Nhật Bản]] ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng [[Việt Minh]], và thấy Hồ Chí Minh trong tình trạng sốt rét nặng. OSS gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở [[Trung Quốc]] để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là [[Paul Hogland]]<ref>John C. Fredriksen, ''Fighting Elites: A History of U.S. Special Forces: A History of U.S. Special Forces'', trang 110, ISBN 1598848119, Nhà Xuất bản: ABC-CLIO, 2011.</ref> đã đến. Những người Mỹ đã ở lại đó trong vòng hai tháng và có thể thuốc men của họ đã cứu sống Minhông.<ref name="Henry">[http://www.nytimes.com/2013/04/18/world/asia/henry-a-prunier-army-operative-who-helped-trained-vietnamese-troops-dies-at-91.html?_r=0 Henry A. Prunier, 91, U.S. Soldier Who Trained Vietnamese Troops, Dies], Thời báo New York, ngày 17 tháng 04 năm 2013.</ref><ref>Maurice Isserman, John Stewart Bowman (2003, 1992), ''Vietnam War'', trang 5, ISBN 0-8160-4937-8.</ref><ref>David G. Marr, ''Vietnam 1945: The Quest for Power'', trang 287, ISBN 0520212282, University of California Press (ngày 3 tháng 11 năm 1997).</ref><ref>Maurice Isserman, ''World War II, Updated Edition'', trang 112, ISBN 1438100183, Infobase Publishing, 2009.</ref><ref>Carol Sheriff, David W. Blight, David M. Katzman, Howard P. Chudacoff, Fredrik Logevall, ''A People and a Nation: A History of the United States, Volume 2, Brief: A History of the United States. Since 1865'', trang 765, Chương 2, ISBN 0547175604, Nhà Xuất bản: Cengage Learning.</ref>
 
Ngày [[16 tháng 8]] năm [[1945]], Tổng bộ Việt Minh triệu tập [[Quốc dân Đại hội Tân Trào|Đại hội quốc dân]] tại Tân Trào ([[Tuyên Quang]]), cử ra [[Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam|Ủy ban Dân tộc Giải phóng]] tức Chính phủ Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Dòng 297:
====Từ ''Độc lập'' tới ''Toàn quốc kháng chiến''====
[[Tập tin:Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập.jpg|nhỏ|250px|Hồ Chí Minh đọc [[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]] trên [[Quảng trường Ba Đình]].]]
Hồ Chí Minh đọc bản [[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]] vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]] trên [[Quảng trường Ba Đình]] tại [[Hà Nội]], tuyên bố thành lập nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. MinhÔng trích dẫn bản [[Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ|Tuyên ngôn Độc lập]] của [[Hoa Kỳ]] và bản [[Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền]] của [[Pháp]] để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của [[Việt Nam]].<ref>Theo Duiker, tr. 209 thì trước khi viết ông đã hỏi Dan Phelan, một trung úy Mỹ về đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, bởi ông định sẽ đưa vào bản tuyên ngôn của [[Việt Nam]]. Còn chính Phelan thì kể lại: "Nhưng thực ra thì có lẽ ông ấy biết về bản Tuyên ngôn còn rõ hơn tôi". Theo Thiếu tá OSS [[Archimedes Patti]] ("Why Vietnam?", Chương 23) thì Hồ Chí Minh đã hỏi ông về đoạn mở đầu này.</ref> Hồ Chí Minh nói với chỉ huy tình báo quân sự Mỹ OSS tại miền Bắc, Archimedes L. A Patti, rằng mìnhông theo [[chủ nghĩa Lenin]], tham gia thành lập [[Đảng Cộng sản Pháp]] và xin gia nhập [[Đệ Tam Quốc tế]] vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. MinhÔng không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, Minhông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của [[Mỹ]] trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của [[Liên Xô]] (bằng việc gửi thư cho [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Harry S. Truman|Harry Truman]] nhưng không được đáp lại<ref>Có thể xem nội dung bức thư (bằng [[tiếng Anh]]) tại [http://rationalrevolution.net/war/collection_of_letters_by_ho_chi_.htm]. Bức thư này không được trả lời cũng như không được công bố trước công chúng tới tận năm 1972.</ref>). Theo Patti, Hồ Chí Minh nói rằng [[người Mỹ]] không muốn giúp mìnhông vì họ xem mìnhông là một người [[Đệ Tam Quốc tế|quốc tế cộng sản]], bù nhìn của [[Moskva]] do ông đã ở [[Moskva]] và nước ngoài nhiều năm, nhưng thực tế mìnhông không phải là người cộng sản theo cách mà [[Mỹ]] hiểu. MinhÔng nợ [[Liên Xô]] vì sự đào tạo của họ nhưng ông đã trả lại bằng 15 năm công tác đảng, và không có bất cứ cam kết nào khác với [[Liên Xô]]. Hồ Chí Minh tự xem mình là một cộng tác viên độc lập. [[Người Mỹ]] đã cung cấp cho Minhông nhiều hỗ trợ về mặt vật chất và tinh thần hơn [[Liên Xô]] nên Minhông cảm thấy mình không hề mắc nợ [[Liên Xô]]. Theo Minhông trong tình thế hiện nay Minhông cần có đồng minh nếu không [[người Việt]] sẽ phải hành động một mình.<ref>[https://archive.org/stream/bub_gb_e8EpyU3-2zwC#page/n399/mode/2up Why Viet Nam? Prelude to America's Albatross], Archimedes L.A Patti, University of California Press, 1980, pages 373 - 374.</ref> Cuối tháng 9 năm [[1946]], [[Mỹ]] rút tất cả các nhân viên tình báo tại [[Việt Nam]] về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.<ref>''Why Vietnam?'', Archimedes L.A.Patti, trang 595, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008.</ref>
[[Tập tin:HoChiMinhTelegramToTruman1946.png|nhỏ|trái|Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ [[Harry S. Truman|Harry Truman]] kêu gọi sự ủng hộ của [[Mỹ]] nhưng không được đáp lại.]]
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia khác trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước [[Việt Nam]] mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (lãnh tụ Liên Xô [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]],<ref>Бухаркин И.В, "Кремль и Хо Ши Мин 1945-1969", Новая и новейшая история, № 3, 1998, стр. 28.</ref> tướng [[Charles de Gaulle]], Thống chế [[Tưởng Giới Thạch]], [[Tổng thống Pháp]] [[Léon Blum]], Bộ trưởng Thuộc địa Pháp [[Marius Moutet]] và [[Nghị viện Pháp]], …).
Dòng 303:
Ngay sau khi thành lập, [[Võ Nguyên Giáp]] thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời]], ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái,<ref name="saclenh8">[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=7&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref><ref name="saclenh30">[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=30&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 30 NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref> với lý do các đảng này tư thông với ngoại quốc, làm phương hại đến nền độc lập [[Việt Nam]] (như [[Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng|Việt Nam Quốc xã]], [[Đại Việt Quốc dân đảng]]...) nhằm kịp thời trừng trị bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân,<ref name="BuiLam">[http://web.archive.org/web/20120111184416/http://tapchikiemsat.org.vn/viewtopic/phap-luat-78/Nho-bac-Bui-Lam-630.html Nhớ mãi về bác Bùi Lâm, Tạp chí Kiểm sát]</ref> đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những người bị coi là ''nguy hiểm cho nền độc lập của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]''.<ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=33&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 33A NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref> Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn<ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=40&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 36 NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref> để kiểm soát nền kinh tế,<ref>Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), ''Lịch sử 12 nâng cao'', [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà Xuất bản Giáo dục]], Thanh Hóa, 2008. Trang 169.</ref> thống nhất các tổ chức thanh niên (vào [[Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh|Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam]]). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập [[Hội đồng nhân dân]] và [[Ủy ban nhân dân|Ủy ban Hành chính]] địa phương các cấp.
 
Ngay sau khi được tin [[Tađêô Lê Hữu Từ]] trở thành Giám mục, tháng 8 năm [[1945]], Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng vị Giám mục này. Trong thư có đoạn: ''"Có một nhà lãnh đạo mới của người [[Công giáo]] đi theo chân Đức [[Giê-su]], chịu đóng đinh hầu giúp giáo dân biết hy sinh và chiến đấu bảo vệ tự do và độc lập của đất nước"''.<ref>Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng Tân Giám mục [[Tađêô Lê Hữu Từ|Lê Hữu Từ]].</ref> Về những lá thư đócủa ông viết cho Tađêô Lê Hữu Từ, Viện sĩ Viện Hàn lâm Hoàng gia Canada đồng thời giáo sư Đại học Lavát ([[Québec]]) – linh mục Trần Tam Tĩnh có nhận định: ''"Cụ Hồ Chí Minh rất thành thật tôn trọng tín ngưỡng và tin tưởng người [[Công giáo]]. Không có một dấu hiệu nào cho phép trách được rằng, Người nói dối".''<ref>[https://archive.is/20120712021401/baoquangnam.com.vn/chinh-tri/hoc-tap-va-lam-theo-tam-guong-dao-duc-ho-chi-minh/10170-doc-lai-nhung-buc-thu-bac-ho-gui-gioi-chuc-sac-va-dong-bao-cong-giao-viet-nam.html Đọc lại những bức thư Bác Hồ gửi giới chức sắc và đồng bào Công giáo Việt Nam]</ref>
 
Ngày [[23 tháng 9]] năm [[1945]], quân Pháp tấn công [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]. Quân dân địa phương chống cự quyết liệt. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với [[Trần Văn Giàu]] là Chủ tịch. [[Trung ương Cục miền Nam|Xứ ủy]] và [[Ủy ban nhân dân|Ủy ban nhân dân Nam Bộ]] điện ra Chính phủ trung ương để xin phép đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi ''"lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ".''<ref>[http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=281&Itemid=47 Tỉnh Bến Tre - Thực dân Pháp gây hấn (23-9-1945), đồng bào Nam bộ đứng lên kháng chiến] truy cập 28/12/2012.</ref>
 
Ngày [[6 tháng 1]] năm [[1946]], Tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra [[Quốc hội Việt Nam khóa I|Quốc hội]] và Quốc hội thông qua [[Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946|Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam]]. Hai đảng ''đối lập'' trong Chính phủ là [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] (Việt Quốc) và [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]] (Việt Cách) không tham gia bầu cử dù trước đó Hồ Chí Minh đã gửi thư cho [[Nguyễn Hải Thần]] (lãnh tụ Việt Cách) và [[Vũ Hồng Khanh]] (lãnh tụ Việt Quốc) mời Việt Quốc và Việt Cách tham gia Tổng tuyển cử và đề nghị hai bên không công kích nhau bằng lời nói hoặc hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc.<ref>Thư gửi [[Nguyễn Hải Thần]], [[Vũ Hồng Khanh]], Báo Việt Nam, số 19, 6/12/1945.</ref> Trên thực tế, các đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử. Ngay cả khi đã tuyên bố nhất trí về kế hoạch tổng tuyển cử, các đảng phái [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]], [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]] vẫn dùng báo chí đả kích bầu cử, rằng "trúng cử chỉ là [[Việt Minh]] cộng sản... Chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được",<ref name="DDK">[http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1427&Chitiet=30238&Style=1 Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011)]</ref> tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử. Theo [[Võ Nguyên Giáp]], các đảng phái này tẩy chay bầu cử là vì sợ không kiếm được phiếu bầu, bởi uy tín của họ không thể sánh được với Hồ Chí Minh. Theo báo Sự thật thì Việt Quốc, Việt Cách thậm chí còn bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ [[Việt Minh]] (tiêu biểu là [[Trần Đình Long (nhà cách mạng)|Trần Đình Long]]<ref>Theo báo Sự thật, số 14 (20-23/1/1946), thì những người bắt cóc [[Trần Đình Long (nhà cách mạng)|Trần Đình Long]] mặc quần áo Tàu, nói [[tiếng Việt]]. Một ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh [[Yên Bái]] tên Nguyễn Văn Phúc cũng đã bị bắt cóc, về sau người vợ của ông Phúc đến gặp [[Nguyễn Hải Thần]], và được ông đưa đến gặp [[Vũ Hồng Khanh]] để xin thả chồng mình. Ông [[Vũ Hồng Khanh]] từ chối và nói buột miệng "Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là".</ref>) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.<ref>[[Võ Nguyên Giáp]], ''Những năm tháng không thể nào quên'', [[Nhà xuất bản Trẻ|Nhà Xuất bản Trẻ]], lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 103.</ref>
 
[[Quốc hội Việt Nam khóa I|Quốc hội khóa I]] của Việt Nam đã cử ra [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến]] do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch (Hồ Chí Minh đạt số phiếu cao nhất với 169.222 lá phiếu, chiếm 98,4%).<ref>{{Chú thích web|url=http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20160519/la-phieu-ho-chi-minh/1103296.html|tiêu đề=Lá phiếu Hồ Chí Minh}}</ref> Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành [[Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chủ tịch Nước]] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của [[thủ tướng]]. Chính phủ này, cho tới cuối năm [[1946]], đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày [[1 tháng 1]]; [[Tháng ba|tháng 3]]; và ngày [[3 tháng 11]].
 
Nhà nước và chính phủ của Hồ Chí Minh đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, lúc này [[Việt Nam]] chưa được bất cứ quốc gia nào công nhận,<ref>[[Trung Quốc]] và [[Liên Xô]] công nhận Việt Nam lần lượt vào các ngày 18 và [[20 tháng 1]] năm [[1950]]. Nguồn: ''"Tai bay vạ gió" trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950)'', Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí ''[http://web.archive.org/web/20061117113414/http://www.ucpressjournals.com/journal.asp?jIssn=1559-372X Journal of Vietnamese Studies]''{{dead link}}</ref> không phải thành viên [[Liên Hiệp Quốc]],<ref>Cho tới tháng 9 năm [[1977]], [[Việt Nam]] mới được gia nhập [[Liên Hiệp Quốc]].</ref> cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước khác. Ngoài 200.000 quân [[Trung Hoa Dân quốc (1912–1949)|Trung Hoa Dân quốc]] ở [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]], còn có quân [[Anh]], quân [[Pháp]] (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm [[1946]], Pháp có khoảng 60.000 quân) và khoảng 60.000 quân [[Nhật]]. Về đối nội, ''"giặc đói, giặc dốt"'' – như chính cách ông gọi – và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.<ref>Trong các tác phẩm của mình, [[Trường Chinh]] phê phán rằng khi chiếm chính quyền tại [[Hà Nội]], việc không chiếm được [[Kho bạc Nhà nước Việt Nam|Kho bạc Đông Dương]] là một sai lầm nghiêm trọng.</ref><ref>Theo ''Đại cương lịch sử Việt Nam'', tập 3, [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà Xuất bản Giáo dục]], 2006, trang 62 thì vào thời điểm đó, khoảng 95% dân số Việt Nam "mù chữ". Cả sản lượng lẫn năng suất lúa của [[Việt Nam]] đều rất thấp: tới tận năm [[1948]], tính trên toàn Bắc Bộ và Liên khu IV, diện tích lúa mùa là 1.030.611 ha và cho sản lượng 1.346.569 tấn; diện tích lúa vụ chiêm chỉ đạt 63.511 ha với sản lượng 78.971 tấn.</ref>
 
Bởi thế, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học [[Bình dân học vụ]]. Tháng 9 năm [[1945]], nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam. Thư có đoạn:<ref name="cpvgiaod">[http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30525&cn_id=44609#ZJqCGm8M5Kki Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục] - Theo "Tạp chí Cộng sản".</ref>
Dòng 317:
''Non sông [[Việt Nam]] có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc [[Việt Nam]] có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.''|||Hồ Chí Minh
}}
Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, Minhông đề nghị đồng bào "cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa" để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân Hồ Chí Minh cũng gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn cứu đói này.
 
Để đối phó với giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. NóiÔng nói:
{{cquote|
''Chính sách của ta hiện nay là chính sách [[Việt Vương Câu Tiễn|Câu Tiễn]], nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục''.|||Hồ Chí Minh<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 105.</ref>
}}
 
Tháng 10 năm [[1945]], khi [[Hà Ứng Khâm]], Tổng Tham mưu trưởng của quân đội Trung Hoa Dân quốc tới [[Hà Nội]], 300.000 người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]" để "đón tiếp".<ref>[http://thanhnienviet.vn/Portal/Print.aspx?Culture=vi-VN&q=917 Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chương IV], Tạp chí điện tử Thanh Niên Việt.</ref> Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, [[Trung Quốc Quốc dân Đảng|Trung Hoa Quốc dân Đảng]] muốn làm thất bại ý đồ của [[Pháp]] định khôi phục lại địa vị tại [[Đông Dương]] và muốn ngăn chặn sự liên minh của [[Người Việt|người Việt Nam]] với các lực lượng cộng sản [[Trung Quốc]] trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc.<ref name="patti378"/> MinhÔng chấp nhận cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối<ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, 2004, trang 106, phần kể của [[Nguyễn Lương Bằng]].</ref>) cho quân [[Trung Hoa dân quốc|Trung Hoa Dân quốc]] đang làm nhiệm vụ giải giáp quân đội [[Nhật]] tại [[Việt Nam]]. Quân Trung Hoa Dân quốc cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại [[Bắc Bộ Việt Nam|miền Bắc]].
 
Điều làm Hồ Chí Minh lo ngại là trong một số giới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu [[Việt Nam]], người ta vẫn gắn mác cho Minhông và [[Việt Minh]] là "[[Cộng sản]]". Những người thuộc đảng phái quốc gia thân [[Trung Quốc]] thì lại không bị như vậy, nên Minhông phải làm mọi cách để gạt bỏ cái nhãn hiệu nói trên.<ref>''Why Vietnam?'', Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 543.</ref> [[Tháng mười một|Tháng 11]] năm [[1945]], Minhông quyết định cho [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của Minhông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa [[Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương]].<ref>Theo bài ''"Tai bay vạ gió" trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950)'', Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí ''[http://web.archive.org/web/20061117113414/http://www.ucpressjournals.com/journal.asp?jIssn=1559-372X Journal of Vietnamese Studies]''{{dead link}} thì khi gặp nhau ở [[Trung Quốc]] năm [[1950]], [[Lưu Thiếu Kỳ|Lưu Thiếu Kì]] đã nói với ông rằng [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] đã nhận xét hành động này của [[Việt Nam]] như sự "xa rời lý tưởng cộng sản".</ref> MinhÔng kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.<ref>''Chu Ân Lai, những năm tháng cuối cùng (1966-1976)'', Nhà Xuất bản Công an nhân dân, 1996, trang 377 cho biết trong số các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam khi đó, nhiều người như [[Nguyễn Chánh (người Quảng Ngãi)|Nguyễn Chánh]], [[Vũ Anh]], [[Nguyễn Lương Bằng]], [[Phùng Thế Tài]], [[Chu Văn Tấn]]... không có nhiều thời gian được đào tạo tại trường lớp. Ở [[Trung Hoa]] có những lãnh đạo cộng sản không những ít được học hành mà trình độ văn hóa cũng rất thấp; một trường hợp tiêu biểu là [[Nham Kim Sinh]] - Thứ trưởng Bộ Văn hóa thời kì ngay trước [[Đại Cách mạng Văn hóa vô sản|Cách mạng Văn hóa]]. Ông này, theo như nhận xét của [[Chu Đức]] thì "Không đọc được mấy chữ to".</ref>
 
Với tư tưởng đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, Hồ Chí Minh kêu gọi và thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mời nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia các Chính phủ và Quốc hội. Trước Quốc hội, Minhông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng – đảng [[Việt Nam]]".<ref>''Hồ Chí Minh: Toàn tập'', [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], Hà Nội, 2000, tr. 4, tr. 427-428 [http://web.archive.org/web/20020815211438/http://www.na.gov.vn/vietnam/thongbao/hdnd/phan-01/phan1-10.htm]{{dead link|date=November 2010}}</ref> Trong số những nhân sĩ, trí thức do Minhông mời được lựa chọn vào các vị trí trong Chính phủ, có khá nhiều người vốn không tham gia [[Việt Minh]]. Đó là các [[bộ trưởng]]: [[Huỳnh Thúc Kháng]], [[Nguyễn Văn Huyên]], [[Trần Đăng Khoa (bộ trưởng)|Trần Đăng Khoa]], [[Hoàng Tích Trí]], [[Vũ Đình Hòe]], [[Chu Bá Phượng]], [[Nguyễn Văn Tố]] và [[Bồ Xuân Luật]]. Năm [[1947]], Chính phủ được cải tổ với sự tham gia thêm của một số trí thức khác, như [[Phan Anh (luật sư)|Phan Anh]], [[Hoàng Minh Giám]].<ref>{{chú thích sách|author=GS TS Nguyễn Lân Dũng|title=Hồ Chí Minh với trí thức ngoài Đảng|year=2010|publisher=Tạp chí ''Kiến thức ngày nay'' số 712|pages=5-6}}</ref> Về sau này ông cho biết:
:''"Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương do Quốc dân Đại hội bầu ra, đáng lẽ tham gia Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng ở ngoài [[Việt Minh]]. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học"''.<ref>''Hồ Chí Minh: Toàn tập'', [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], Hà Nội, 1996, T.6, tr. 160.</ref>
 
Hồ Chí Minh xem những đảng phái quốc gia thân [[Trung Hoa dân quốc|Trung Hoa Dân quốc]] như [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]], [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]] là bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ của [[Trung Hoa Quốc dân Đảng]] và không có liên hệ gì với nhân dân [[Việt Nam]]. MinhÔng miêu tả đóhọ là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng phái quốc gia cũ không có chương trình hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lãnh đạo.<ref name="patti378">''Why Vietnam?'', Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 378.</ref> Nhưng Minhông chấp nhận sự hiện diện của [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]], [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]] trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong Quốc hội không cần qua bầu cử. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của Nội các. Hồ Chí Minh cũng giao cho [[Võ Nguyên Giáp]] và [[Trần Quốc Hoàn]], sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]] tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng phái này trong dân chúng.<ref name="Currey1">Cecil B. Currey, ''Chiến thắng bằng mọi giá'', Nhà Xuất bản Thế giới, Trang 177-178.</ref>
 
Khi biết [[Ngô Đình Diệm]] bị du kích [[Việt Minh]] bắt tại [[Tuy Hòa]], [[Phú Yên]],<ref>[http://www.tienphong.vn/Van-Hoa/28469/Nhung-uan-khuc-trong-cuoc-doi-ong-chu-bao-Nam-Phong-ky-cuoi.html Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong]</ref> Hồ Chí Minh đã yêu cầu đưa Ngô Đình Diệm ra [[Hà Nội]],. Ông đã đến gặp [[Ngô Đình Diệm]] để thuyết phục Diệmông này tham gia chính quyền [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] do [[Việt Minh]] lãnh đạo. Ngô Đình Diệm hỏi Hồ Chí Minh lý do du kích địa phương xử bắn anh của mìnhông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó là một sai lầm do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn.<ref>''Time Magazine'', ngày 4 tháng 8 năm 1961.</ref> Sau đó Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì biết rằng Diệm là một người có tài lãnh đạo. [[Ngô Đình Diệm]] trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời của Hồ Chí Minh với điều kiện Diệmông được [[Việt Minh]] thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này và [[Ngô Đình Diệm]] không chấp nhận hợp tác với Hồ Chí Minh.<ref>Ellen Joy Hammer, The Struggle for Indochina, 1940-1955, page 150, Stanford University Press, 1966.</ref><ref>Gullion, memcon, ngày 7 tháng 5 năm 1953, FRUS, 1952–1954, vol. 13, page 553–554.</ref><ref>Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, page 212, Oxford University Press, 1968.</ref>
[[Tập tin:Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris.jpg|nhỏ|200px|Hồ Chí Minh và [[Phạm Văn Đồng]] tại [[Paris]], [[1946]].]]
Theo [[Hiệp ước Pháp-Hoa]], ký ngày [[28 tháng 2]] năm [[1946]], quân [[Pháp]] thay thế quân của [[Tưởng Giới Thạch]]. Một tuần sau, ngày [[6 tháng 3]] năm [[1946]], Hồ Chí Minh cùng [[Vũ Hồng Khanh]] ký với [[Jean Sainteny]] – Ủy viên Pháp ở miền bắc [[Ðông Dương]] - bản [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946)|Hiệp định Sơ bộ]] với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
* [[Pháp]] công nhận [[Việt Nam]] "là một nước tự do, là một phần tử trong [[Liên bang Đông Dương]] thuộc [[Liên hiệp Pháp]]". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi Minhông muốn [[Việt Nam]] được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả Tổ quốc của Minhông.
* Pháp được đưa 15.000 quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.
* Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày [[31 tháng 5]] năm [[1946]], Hồ Chí Minh lên đường sang [[Pháp]] theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn Chính phủ do [[Phạm Văn Đồng]] dẫn đầu cũng khởi hành sang Pháp tham dự [[Hội nghị Fontainebleau 1946]]. Trước khi đi, thìông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho [[Huỳnh Thúc Kháng]]<ref>Tuy chính quyền của Hồ Chí Minh có sự tham gia của nhiều nhân sĩ Nho học, [[Huỳnh Thúc Kháng]] là người duy nhất trong số đó đã từng đỗ đại khoa ([[tiến sĩ]] năm [[1904]]).</ref> với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến".<ref>Trong ''Đêm giữa ban ngày'', tác giả [[Vũ Thư Hiên]] dẫn lại lời bố của mình rằng khi sắp về [[Hà Nội]] (tháng 9 năm [[1945]]), Hồ Chí Minh không biết được hết tình hình chính trị mới diễn ra và có hỏi ông [[Vũ Đình Huỳnh]] (bố của Vũ Thư Hiên) rằng: "nghe nói cụ Huỳnh ([[Huỳnh Thúc Kháng]]) đầu Tây rồi phải không?".</ref> Tại [[Việt Nam]], đãông dự đoán thời gian ở [[Pháp]] là "...có khi một tháng, có khi hơn" <ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà Xuất bản Văn học, trang 112, phần kể của [[Nguyễn Lương Bằng]].</ref> nhưng cuối cùng ông đã ở Pháp gần 4 tháng (Hội nghị [[Fontainebleau]] diễn ra từ [[6 tháng 7]] tới [[10 tháng 9]] năm [[1946]]) mà không thể cứu vãn được nền [[hòa bình]].
 
Trong khi Hồ Chí Minh đang ở [[Pháp]], các lãnh đạo [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]] lần lượt rời bỏ Chính phủ liên hiệp vì bất đồng với [[Việt Minh]] về việc ký [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946)|Hiệp định Sơ bộ]] cho phép quân [[Pháp]] quay trở lại [[Việt Nam]] cũng như không muốn sáp nhập quân đội vào biên chế Vệ quốc đoàn dưới sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng do Việt Minh kiểm soát do lo sợ bị khống chế rồi bị giải tán dần.<ref>[http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=c6j6GAnIk1u39gHBrZ4ou5OJb8b4i3nB&ssid=3300 Việt Nam, một thế kỷ qua], Chương 30, Nguyễn Tường Bách, Nhà xuất bản Thạch Ngữ, California, 1998</ref> Ngày 19 tháng 6 năm 1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ [[Việt Minh]] đăng xã luận kịch liệt chỉ trích ''"bọn phản động phá hoại [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946)|Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt]] mùng [[6 tháng 3]]"''. Ngay sau đó, [[Võ Nguyên Giáp]] bắt đầu chiến dịch trấn áp tất cả các đảng phái đối lập được [[Việt Minh]] coi là nguy hiểm như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo... bằng lực lượng công an và quân đội do [[Việt Minh]] kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền [[Pháp]]. Võ Nguyên GiápÔng cũng sử dụng các sĩ quan [[Nhật Bản]] trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.<ref name="Currey">''Chiến thắng bằng mọi giá'', trang 196-197, Cecil B. Currey, Nhà Xuất bản Thế giới, 2013.</ref> Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là [[vụ án phố Ôn Như Hầu]]. Trong vụ án này, Công an khám xét trụ sở [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Đại Việt Quốc dân đảng|Đại Việt Quốc dân Đảng]] với lý do hai đảng này âm mưu đảo chính nhằm lật đổ [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Các thành viên [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Đại Việt Quốc dân đảng|Đại Việt Quốc dân Đảng]] có mặt tại trụ sở cũng bị bắt trong đó có đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng trong [[Quốc hội Việt Nam khóa I]] là [[Phan Kích Nam]]. Sau sự kiện này các lãnh đạo [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]], từng tham gia Chính phủ, đã lưu vong sang [[Trung Quốc]].
[[Tập tin:Vietnam France modus vivendi.JPG|nhỏ|300px|Hồ Chí Minh và [[Marius Moutet]] bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt – Pháp.]]
[[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] thất bại vì phía [[Pháp]] chần chừ không ấn định chắc chắn thời điểm và cách thức thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở [[Nam Kỳ]] về việc sáp nhập Nam Kỳ vào [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] theo yêu cầu của phái đoàn [[Việt Nam]].<ref>Hồi ký 1925-1964, tập 2: 1945 - 1954, trang 353, Nguyễn Kỳ Nam, Nhật báo Dân Chủ Mới, 1964.</ref> Phái đoàn Việt Nam do [[Phạm Văn Đồng]] dẫn đầu về nước nhưng Hồ Chí Minh vẫn nán lại Pháp ký Tạm ước với [[Pháp]]. Ngày [[14 tháng 9]] năm [[1946]], Hồ Chí Minh ký với đại diện [[chính phủ Pháp]], Bộ trưởng Thuộc địa [[Marius Moutet]], bản [[Tạm ước Việt - Pháp]] (''Modus vivendi''). Trong bản Tạm ước này, hai bên [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] và [[Pháp]] cùng bảo đảm với nhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của hai bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc [[Đông Dương]] làm tiền tệ, thống nhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của [[Liên bang Đông Dương]], cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đề ngoại giao của Việt Nam. [[Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1960-1964|Chính phủ Việt Nam]] cam kết ưu tiên dùng [[người Pháp]] làm cố vấn hoặc chuyên môn, và hai bên đã đồng ý chấm dứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đối nhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người của bên kia, và hợp tác để những kiều dân hai bên không làm hại nhau. Tạm ước cam kết sẽ có một nhân vật do [[Việt Nam]] chỉ định và [[Chính phủ Pháp]] công nhận được ủy nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thi hành những điều thỏa thuận này. Cuối cùng, Chính phủ hai bên sẽ sớm tiếp tục đàm phán (chậm nhất là vào tháng 1 năm [[1947]]) để tìm cách ký kết những bản thỏa thuận riêng nhằm dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát.<ref>Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Văn kiện Đảng (1945-1954), Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1978, trang 256-260.</ref><ref>Hồ Chí Minh. Toàn tập - Tập 4, [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], Hà Nội, 2000, trang 328-330.</ref>
 
Thế nhưng, những nhân nhượng đó cũng không tránh khỏi chiến tranh. Cuối tháng 12 năm 1946, quân [[Pháp]] gửi 3 tối hậu thư trong vòng chưa đầy một ngày đòi Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị vũ trang, tước vũ khí của [[Dân quân tự vệ|Tự vệ]] tại [[Hà Nội]] và trao cho quân đội [[Pháp]] quyền duy trì trị an trong thành phố. Không thể chấp nhận những yêu cầu mang tính tước đoạt chủ quyền Việt Nam của quân Pháp, ông ký lệnh kháng chiến được ký. Tối ngày [[19 tháng 12]] năm [[1946]], [[Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến]] do Hồ Chí Minh chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20 giờ tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
 
====Giai đoạn kháng chiến chống Pháp====
Tháng 3 năm [[1947]], Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chuyển lên [[Việt Bắc]],. Ông kêu gọi nhân dân [[tiêu thổ|tiêu thổ kháng chiến]], tản cư cũng là kháng chiến, phá hủy kho tàng cũng là kháng chiến (để không cho quân [[Pháp]] sử dụng lại cơ sở hạ tầng).
 
Từ năm [[1947]] cho tới năm [[1950]], Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến, khiến quân [[Pháp]] dần bị sa lầy và ngày càng mệt mỏi vì chiến tranh. Hồ Chí Minh đã nói về cuộc chiến này:
:''"Nó sẽ là một cuộc chiến giữa [[voi]] và [[hổ]]. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng [[hổ]] không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong [[rừng]] và ra ngoài vào [[ban đêm]]. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con [[voi]] sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở [[Đông Dương]] sẽ như vậy".'' <ref>Trả lời phóng viên David Schoenbrun của báo New York Times trong cuộc phỏng vấn ngày 11 tháng 9 năm 1946 tại Paris.<br />Duiker, William, ''Ho Chi Minh: A Life'', Hyperion, 2000, tr. 379.</ref>
 
Chuyến đi của Hồ Chí Minh sang [[Trung Quốc]] và [[Liên Xô]] gặp [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] và [[Mao Trạch Đông]] năm [[1950]] có ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong vấn đề [[Trung Quốc]] và [[Liên Xô]] hỗ trợ chính phủ Bắc [[Việt Nam]] phát triển [[chủ nghĩa cộng sản]] ở Việt Nam và chống [[Pháp]].<ref name="press%2Eprinceton%2Eedu"/> Đúng dịp [[Tết Nguyên Đán|Tết Nguyên đán]] [[Canh Dần]] năm 1950, Minhông thực hiện một chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, Liên Xô. và ngàyNgày 2 tháng 1 năm 1950, ông cùng [[Trần Đăng Ninh (tướng)|Trần Đăng Ninh]], từ [[Tuyên Quang]] đi bộ tới [[Trùng Khánh (huyện)|Trùng Khánh]] - [[Cao Bằng]], rồi đi tiếp đến [[Long Châu, Sùng Tả|Long Châu]], [[Quảng Tây]]. Đến đây, Hồ Chí Minh bắt được liên lạc với [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]]. Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bố trí xe đón đoàn đi [[Nam Ninh, Quảng Tây|Nam Ninh]], từ đó đoàn đi xe lửa đến [[Bắc Kinh]]. MinhÔng làm việc ở Bắc Kinh một tuần, sau đó cùng Trần Đăng Ninh đi xe lửa liên vận đến [[Liên Xô]]. Chuyến đi bí mật này, đãông đã thành công ở cả hai phương diện chính trị và ngoại giao, đó là chuyến đi lịch sử làm tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa [[Việt Nam]] – [[Liên Xô]], giữa [[Việt Nam]] – [[Trung Quốc]] và các nước [[xã hội chủ nghĩa]] khác. Ngày 11 tháng 3 năm 1950, Hồ Chí Minh và Trần Đăng Ninh về đến [[Bắc Kinh]], giữa tháng 4 năm 1950, có ngườiông mới về đến [[Tuyên Quang]].
 
Tại [[Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam|Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2]] được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm [[1951]] tại [[Tuyên Quang]], Hồ Chí Minh quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]]. MinhÔng tuyên bố:
{{cquote|
''Chính vì [[Đảng Lao động Việt Nam]] là đảng của [[giai cấp công nhân]] và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam.''|||Hồ Chí Minh<ref>''Đại cương lịch sử Việt Nam'', tập 3, [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà Xuất bản Giáo dục]], 2006, trang 92.</ref>
Dòng 361:
Tại [[Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam|Đại hội này]], Đảng Lao động đã khởi xướng [[Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam|Cải cách ruộng đất]] nhằm xóa bỏ văn hóa [[phong kiến]], tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (những người theo [[Pháp]], chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên [[chủ nghĩa xã hội]] một cách nhanh chóng.
 
Từ [[tháng 10]] năm [[1952]], Hồ Chí Minh đã gửi bản "chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam" cho [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] để "đề nghị xem xét và cho chỉ dẫn" và cho biết chương trình hành động được lập bởi chính mìnhông dưới sự giúp đỡ của [[Lưu Thiếu Kỳ]].<ref>[http://www.rusarchives.ru/evants/exhibitions/vietnam1/22.shtml Thư Hồ Chí Minh gửi Stalin ngày 31 tháng 10 năm 1952], Văn thư lưu trữ tại Cục lưu trữ Quốc gia Nga. Nội dung (dịch): Đồng chí Stalin thân mến: Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng lao động Việt Nam]]. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi ([[Lưu Thiếu Kỳ]]), Văn Sha San. Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn. Gửi lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh, 31/10/1952.</ref>
 
Cuộc [[cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam|cải cách ruộng đất]] tại [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] được phát động vào cuối năm [[1953]] và kéo dài cho tới cuối năm [[1957]]. Theo tổng kết của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]], cuộc cải cách đã "đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn [[Việt gian]] [[phản động]]",<ref>[http://www.dangcongsan.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=30652&cn_id=49931 Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II Tháng 11-1958]</ref> phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho hơn 2 triệu hộ nông dân ở miền đồng bằng Bắc bộ.<ref name="ĐCLSVN">Lê Mậu Hãn (chủ biên), ''Đại cương lịch sử Việt Nam'', tập 3, [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà Xuất bản Giáo dục]], tháng 3-2007.</ref> Tuy vậy cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm,<ref name="phienbancu"/> nhất là trong việc người dân lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung thành. Cựu Thủ tướng [[Võ Văn Kiệt]] cho rằng, những vụ sát hại này đã "gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế".<ref>[http://www.mofa.gov.vn/vi/cs_doingoai/pbld/ns050830151827#VF21ppkGu6Ab Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Ðại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của chúng ta], có dẫn nguồn từ "Báo Việt Nam Độc lập" ngày 1-2-1942, ''Hồ Chí Minh toàn tập'', tập III, trang 198 và ''Hồ Chí Minh toàn tập'', tập IV, trang 45.</ref> Trước tình cảnh đó, từ tháng 2 năm [[1956]], công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách ruộng đất bị cách chức, gồm cả [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Tổng Bí thư]] [[Trường Chinh]]. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước [[Quốc hội Việt Nam|Quốc hội]].
 
[[Chiến tranh Đông Dương]] kết thúc vào năm [[1954]], khi [[thực dân Pháp]] bị đánh bại tại [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|Điện Biên Phủ]], sự kiện báo hiệu sự kết thúc của [[chủ nghĩa thực dân]] trên phạm vi toàn [[thế giới]]<ref>''[http://web.archive.org/web/20061127183407/http://www.time.com/time/asia/2006/heroes/nb_nguyen.html General Vo Nguyen Giap]'', Kay Johnson.</ref> – và dẫn đến [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]]. Kết quả mà đoàn [[Việt Nam]] thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố ''"Ngoại giao đã thắng to!".''<ref>''Đại cương lịch sử Việt Nam'', tập 3, [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà Xuất bản Giáo dục]], 2006, trang 127.</ref>
Dòng 371:
{{Tin nhắn|''Bỏ qua mọi thứ lễ nghĩa nhưng vẫn khiến người khác phải kính trọng, con người ít lời, thông tuệ ấy có một tính cách rất lôi cuốn… Và ngày hôm đó đã đi vào tâm trí của tôi như một trong những kỷ niệm thật đẹp của đời tôi.''}}
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-48539-0002, Berlin, Besuch Ho Chi Minh bei Wilhelm Pieck.jpg|nhỏ|200px|Hồ Chí Minh và Chủ tịch [[Cộng hòa Dân chủ Đức]] [[Wilhelm Pieck]], 1957.]]
Trên đường quay về [[Việt Nam]] vào cuối tháng 8 năm 1957, Hồ Chí Minh một lần nữa ghé thăm [[Trung Quốc]] và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với chiến dịch chống phái hữu. Theo Trình Ánh Hồng (một nhà nghiên cứu Trung Quốc), có lẽ "ông" đã bị ấn tượng mạnh về phong trào [[Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng]] và ý định thực hiện giống như chiến lược của [[Mao Trạch Đông]] nhằm buộc những người có quan điểm trái ngược với [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] lộ mình. Đối với [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], tình hình quốc tế cuối năm [[1957]] và đầu [[1958]] đã chuyển biến rất khác giai đoạn trước đó. Khoảng hai tuần sau khi trở về nước, Hồ Chí Minh dùng bút danh ''Trần Lực'', đăng một bài trên [[Nhân Dân (báo)|báo Nhân dân]] ngày 16 tháng 9 năm.1957 với tựa đề ''"Đập tan tư tưởng hữu khuynh"'', lên án đó là tư tưởng độc hại và dễ lan tràn như [[cỏ dại]], sau đó [[Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm]] bị dập tắt.<ref name="anhhong"/> Trước đó, một xã luận của báo Nhân dân ở Việt Nam, viết rằng: ''“Chúng ta không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận để tách rời nhân dân khỏi [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng]].”''
 
Hai năm sau ([[1959]]), Hồ Chí Minh tới thăm [[thủ đô]] [[Bắc Kinh]] nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng [[Trung Quốc]]. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả [[Bắc Kinh]] lẫn [[Moskva]] để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến [[Việt Nam]].<ref>Jules Archer, Ho Chi Minh: Legend of Hanoi, Chapter 9: Between Russian Bear and Chinese Dragon, Bailey Bros.& Swinfen Ltd 1973, ISBN 978-0-561-00153-1, trang 109, trích: ''...In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send "volunteer" troops or military advisers...''</ref> Về quan hệ cá nhân, Hồ Chí Minh có quan hệ bạn bè thân thiết với [[Chu Ân Lai]],<ref>[https://archive.is/20130421224359/www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/89/70/84/84/84/147794/Default.aspx Tình bạn giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh - Quân đội nhân dân - Sự kiện và nhân chứng<!-- Bot generated title -->]</ref> và [[Diệp Kiếm Anh]].[[Tập tin:Ho Chi Minh 1964.jpg|nhỏ|trái|250px|Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một đồi cây ở [[Phú Thọ]], 1964.]]
Đầu tháng 9 năm [[1963]], Hồ Chí Minh lần đầu đi điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hóa (從化), tỉnh [[Quảng Đông]], Trung Quốc. [[Chu Ân Lai]] (周恩來) và [[Trần Nghị]] (陳毅) từ [[Bắc Kinh]] đến thăm ông, sắp xếp việc sinh hoạt hàng ngày và chăm sóc sức khoẻ cho Hồ Chí Minh. Ảnh chân dung thường thấy hiện nay của Hồ Chí Minh được treo ở các nơi quan trọng của Việt Nam là do [[nhiếp ảnh gia]] [[Lục Văn Tuấn]] (陸文駿) của "Quảng Đông họa báo" (廣東畫報) chụp trong thời gian ông điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hóa.<ref>吴光祥。[http://cpc.people.com.cn/GB/68742/106364/106365/8794062.html 中国医疗组全力救治胡志明主席秘闻]。2009年2月12日〔2013年8月27日〕。</ref>
 
Ít lâu sau khi [[Hoa Kỳ]] bắt đầu cuộc chiến tranh không kích, [[Chiến dịch Sấm Rền|ném bom vào miền Bắc Việt Nam]], Hồ Chí Minh nhận được điện từ nhà triết học nổi tiếng người Anh [[Bertrand Russell]] - một người yêu hòa bình. Trong điện này, Russell nêu ra quan điểm chống đối của mình đối với sự can thiệp của [[quân đội Hoa Kỳ]] trong [[chiến tranh Việt Nam]]. Đáp lại, Minhông gửi Russell điện cảm ơn vào ngày [[10 tháng 8]] năm [[1964]]. Điện này có đoạn:
{{cquote|
''Chúng tôi luôn thiết tha với [[hòa bình]] và chủ trương giải quyết vấn đề [[Việt Nam]] bằng phương pháp hòa bình. Tôi cảm ơn cụ đã quan tâm đến tình hình nghiêm trọng do [[Mỹ]] gây ra trên đất nước chúng tôi và xin gửi cụ lời chào kính trọng.''|||Hồ Chí Minh
Dòng 386:
====Giai đoạn cuối đời====
{{Xem thêm|Di chúc của Hồ Chí Minh}}
Từ khoảng nửa cuối [[thập niên 1960]], do sức khỏe suy giảm, Hồ Chí Minh giảm dần các hoạt động [[chính trị]], thường xuyên sang [[Trung Quốc]] tham quan, nghỉ ngơi và dưỡng bệnh<ref>[http://www.vietnamplus.vn/nhung-lan-sinh-nhat-bac-qua-loi-ke-cua-dau-bep-trung-quoc/322190.vnp Những lần sinh nhật Bác qua lời kể của đầu bếp Trung Quốc], Vietnam Plus, 13/05/2015.</ref> (nhất là trong 3 năm cuối đời khi ông liên tục ốm nặng). Bắt đầu từ năm [[1963]], Hồ Chí Minh dần bàn giao công việc cho Bí thư thứ nhất [[Lê Duẩn]], người mà Hồ Chí Minh đã gọi ra [[Hà Nội]] gấp vào năm [[1957]] để trực tiếp giúp mìnhông điều hành công việc chung của Đảng.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2008/4/148314/ | tiêu đề = Những mẩu chuyện nhỏ về Bác Hồ và Ba tôi | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = 9 tháng 7 năm 2014 | nơi xuất bản = [[Sài Gòn Giải Phóng|Báo Sài Gòn Giải Phóng Online]] | ngôn ngữ = }}</ref> Lê Duẩn chưa sát cánh làm việc với Hồ Chí Minh ngay từ những năm 1940 như [[Phạm Văn Đồng]], [[Võ Nguyên Giáp]] hay [[Trường Chinh]], nhưng khi mà đất nước Việt Nam đang bị chia cắt, cách hay nhất để bảo đảm [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] sẽ đại diện cho tất cả người [[Việt Nam]], là đưa một cán bộ từ miền Nam lên lãnh đạo toàn Đảng. Quyết định của Hồ Chí Minh về việc ông sẽ bàn giao công việc cho [[Lê Duẩn]], và việc ông ủng hộ Lê Duẩn trong cuộc bầu cử [[1960]] là một cách để đảm bảo sự đoàn kết đất nước.<ref>Stein Tonnesson, Đại Học Olso, tham luận “Chứng cớ mới về Trung Hoa, Đông Nam Á, và Chiến tranh Việt Nam”, phát biểu tại buổi Hội thảo Quốc tế Hồng Kông, ngày 12 tháng 1 năm 2000.</ref>
 
Hồ Chí Minh dần lui về nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào, và viết báo.<ref>BBC, Loạt bài về [[Lê Duẩn]]: ''[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/05/060504_leduan_emergence.shtml Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực]'', ''[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/05/060510_leduan_part3.shtml Kỳ 3:Cuộc đấu tranh trong nội bộ]''</ref><ref>Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao, chẳng hạn như khi nói chuyện với Chủ tịch [[Hội đồng Bộ trưởng]] [[Liên Xô]] [[Aleksey Nikolayevich Kosygin]] từ năm [[1963]], Hồ Chí Minh nói rằng ông sẽ dần bàn giao mọi công việc cho [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Bí thư thứ nhất]] [[Lê Duẩn]]</ref> [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Bí thư thứ nhất]] [[Lê Duẩn]] là người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam. Tuy nhiên với vai trò và uy tín to lớn, các quyết sách lớn (như [[sự kiện Tết Mậu Thân|Tổng tiến công Tết Mậu Thân]] hay [[Hiệp định Paris 1973|việc đàm phán ở Paris]]) vẫn cần sự tham gia chỉ đạo và phê duyệt của Hồ Chí Minh.
Dòng 392:
Trong giai đoạn [[1951]]–[[1969]], Hồ Chí Minh nắm giữ chức vụ [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam#Chủ tịch Đảng (1951–1969)|Chủ tịch Đảng]]. Đây là chức vụ lớn nhất trong lịch sử [[Đảng Cộng sản Việt Nam]], hơn cả chức vụ [[Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Tổng Bí thư]] (sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời năm [[1969]], [[Bộ Chính trị]] thống nhất coi đây là chức vụ danh dự cao nhất chỉ dành riêng cho Hồ Chí Minh nên đã bãi bỏ việc người khác tiếp nối chức vụ này, vì vậy Hồ Chí Minh là người duy nhất trong lịch sử nắm chức vụ Chủ tịch [[Đảng Cộng sản Việt Nam]]).
 
Trong thời gian chuẩn bị diễn ra [[sự kiện Tết Mậu Thân|cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968]], Hồ Chí Minh đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Trung Quốc]] (ông liên tục ốm nặng kể từ năm [[1966]], phải sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần, hầu như cả năm [[1967]] ông ở Trung Quốc chữa bệnh<ref name="press%2Eprinceton%2Eedu"/>). Tuy phải đi chữa bệnh, nhưng do tầm quan trọng của chiến dịch, nênông vẫn quay về [[Việt Nam]] 2 lần (vào tháng 7 và tháng 12 năm [[1967]]) để chỉ đạo xây dựng và phê duyệt quyết định tiến hành [[Sự kiện Tết Mậu Thân|cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân]]<ref>Giữa đợt dưỡng bệnh dài ngày tại [[Bắc Kinh]], ông có quay lại [[Việt Nam]] vào tháng 12 năm [[1967]] chỉ để phê duyệt quyết định về Tổng tấn công rồi quay lại Bắc Kinh ngay. Nguồn: Duiker., tr. 557 (chương 15).</ref><ref>[https://archive.is/20130421190329/www1.baohaugiang.com.vn/detailvn.aspx?item=2402 Bác Hồ với Tết Mậu Thân 1968<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
Đến cuối tháng 12 năm [[1967]], kế hoạch cơ bản đã hoàn thành, nhưng cần có một cuộc họp [[Bộ Chính trị]] để rà soát lại toàn bộ. Sáng ngày 21 tháng 12 năm 1967, Văn phòng Trung ương điện sang mời ông trở về dự hội nghị Bộ Chính trị sẽ khai mạc vào sáng 28 tháng 12 năm 1967. Tối ngày [[23 tháng 12]], Hồ Chí Minh đi máy bay về đến [[Hà Nội]], các lãnh đạo gồm [[Lê Duẩn]], [[Phạm Văn Đồng]], [[Lê Đức Thọ]] ra đón ông tại sân bay, cùng về nhà và báo cáo công tác chuẩn bị. Ngày [[28 tháng 12]] năm [[1967]], Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà sàn của Hồ Chí Minh, cùng ông thống nhất lần cuối kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân.<ref name=phuong9>[http://www.phuong9govap.gov.vn/bac-ho-voi-tet-mau-than-nam-ay.html Bác Hồ với tết Mậu Thân năm ấy]</ref>
 
Ngày [[30 tháng 12]] năm [[1967]], Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dự họp Bộ Chính trị. Sáng ngày 31 tháng 12 năm 1967, Hồ Chí Minh đi ra [[Phủ Chủ tịch]] để thu thanh bài thơ chúc mừng năm mới có tên ''“Toàn thắng ắt về ta”'', được coi là hiệu lệnh mở màn cuộc Tổng tiến công. Chiều ngày 1 tháng 1 năm 1968, Bộ Chính trị đến làm việc, Hồ Chí Minh căn dặn công việc trước khi lên đường sang [[Trung Quốc]] tiếp tục dưỡng bệnh. Ngoài liên lạc điện thoại, các lãnh đạo [[Việt Nam]] vẫn thay nhau đến [[Bắc Kinh]], trực tiếp báo cáo và xin ý kiến Hồ Chí Minh. Chiều ngày 20 tháng 1 năm 1968, [[Lê Đức Thọ]] sang báo cáo công việc với Hồ Chí Minh. Sáng ngày [[25 tháng 1]] năm [[1968]], đến lượt Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]] đến trực tiếp báo cáo với Hồ Chủ tịch về công tác chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy Tết [[Mậu Thân]]. Hiệu lệnh mở màn cuộc tổng tấn công chính là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh phát trên [[Đài tiếng nói Việt Nam]]:
Dòng 402:
Sau [[sự kiện Tết Mậu Thân|cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968]], Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán hòa bình với [[Việt Nam]]. Hồ Chí Minh gọi [[Lê Đức Thọ]] về gấp [[Hà Nội]] để giao nhiệm vụ sang [[Paris]] làm Cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Trong lá thư viết tay gửi Bộ Chính trị, Hồ Chí Minh ghi rõ: ''"… Anh Sáu ([[Lê Đức Thọ]]) nên về ngay (trước tháng 5 năm 1968) để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu [[Mỹ]]"''. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ký sắc lệnh cử ông [[Xuân Thủy]] làm Bộ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán tại [[Hội nghị Paris]]. Trước khi đoàn đàm phán lên đường, Hồ Chí Minh đã căn dặn phái đoàn: đừng để nước [[Mỹ]] bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân [[Mỹ]] vì [[Việt Nam]] chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của [[Mỹ]], về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì ''"dĩ bất biến, ứng vạn biến".''<ref>[https://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/chuyen-chua-ke-ben-le-hoi-nghi-paris-ky-1-n20121214091755132.htm Chuyện chưa kể bên lề Hội nghị Paris]</ref>
 
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật lần thứ 75 của ông vào ngày [[10 tháng 5]] năm [[1965]],<ref>[<!--http://222.255.28.80/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340580&cn_id=357718#0nQreWliddUR-->http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340580&cn_id=357718 Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đoàn kết vì con người]</ref> và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. MangÔng mang di chúc ra viết và dặn lại [[Vũ Kỳ]]: ''"Chú cất giữ cẩn thận, sang năm, mồng [[10 tháng 5]] nhớ đưa lại cho Bác"''. Mở đầu bản di chúc năm [[1965]] có đoạn: ''"Nhân dịp mừng 75 tuổi... Năm nay tôi 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng là lớp người 'xưa nay hiếm'..."'' {{Cần dẫn nguồn}}
 
Trong di chúc, ông có viết:
{{cquote|
''Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước [[Việt Nam]] hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.''|||Hồ Chí Minh
Dòng 414:
===Qua đời===
[[Tập tin:Bacho1.jpg|nhỏ|phải|250px|Các em thiếu nhi khóc trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh năm [[1969]].]]
Trong mấy năm cuối đời, do tuổi đã cao nên Hồ Chí Minh bị chứng [[suy tim]] không thể chữa khỏi. Chiều ngày 12 tháng 8 năm 1969, Hồ Chí Minh vẫn còn khỏe, ông nghe [[Lê Đức Thọ]] báo cáo tình hình [[Hội nghị Paris]]. Đêm hôm đó, thìông lên cơn [[sốt]] và [[ho]], rồi những ngày sau đó bệnh nặng hơn. Bác sĩ nói [[tim]] của ông đã quá yếu, khó mà cứu chữa. Sau 2 tuần nằm trên giường bệnh thì, đêm ngày 1 tháng 9, ông bị [[hôn mê]]. Đến 6 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh ngừng thở, các bác sĩ phải cho thở máy. Đến 9 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh bị một cơn [[suy tim]] nặng, các bác sĩ phải thực hiện công việc cấp cứu nhưng không có kết quả. Theo dõi trên [[máy điện tim]] thì đến 9 giờ 15 phút, trái tim của Hồ Chí Minh đã ngừng đập.<ref>{{Chú thích web | url = http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/nhung-giay-phut-cuoi-ben-chu-tich-ho-chi-minh-396517.html | tiêu đề = Những giây phút cuối của Chủ tịch Hồ Chí Minh | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = 8 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = [[VietNamNet]] | ngôn ngữ = }}</ref>
 
Hồ Chí Minh [[chết|qua đời]] vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày [[2 tháng 9]] năm [[1969]] (tức ngày 21 tháng 7 [[âm lịch]]) tại thủ đô [[Hà Nội]],<ref>[http://web.archive.org/web/20100605020019/http://www.vietnam.gov.vn/cttdtcp/vi/nuocchxhcnvn/thongtintonghop/thongtintonghop_chutichhcm.html TIỂU SỬ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (1890 - 1969)]</ref> do bị [[suy tim]], hưởng thọ 79 tuổi. Do hoàn cảnh thời chiến, để tránh trùng với ngày [[Ngày Quốc khánh (Việt Nam)|Quốc khánh]], ngày mất của ông được Ban Lãnh đạo Đảng công bố là ngày [[3 tháng 9]], đến năm [[1989]] mới công bố lại là ngày [[2 tháng 9]].<ref name=hisuk>[<!--http://www.history.co.uk/encyclopedia/ho-chi-minh.html-->http://www.bbc.co.uk/history/historic_figures/ho_chi_minh.shtml Ho Chi Minh]</ref>
 
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp [[thế giới]].<ref name="duiker562">''Ho Chi Minh - A Life'', William Duiker, tr. 562.</ref> Nhiều nước trong khối [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]] đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi caông. Một tuyên bố chính thức từ [[Moskva]] đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ đại của dân tộc [[Việt Nam]] anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của phong trào Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của [[Liên Xô|Liên bang Xô Viết]]". Từ các nước [[Thế giới thứ ba]], người ta ca ngợi Minhông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở [[Ấn Độ]] miêu tả Minhông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho [[tự do]] và cho sự đấu tranh bền bỉ của [[nhân dân]]".<ref name="duiker562"/> Những bài báo khác thì đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của [[Uruguay]] viết:
{{cquote2|''Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt.''<ref name="duiker562"/>}}
 
Phản ứng từ các nước [[Thế giới phương Tây|phương Tây]] dè dặt hơn. [[Nhà Trắng]] và các quan chức cấp cao của [[Hoa Kỳ]] từ chối bình luận. Báo chí [[Thế giới phương Tây|phương Tây]] đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả Minhông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền [[Hà Nội]] cũng ghi nhận Hồ Chí Minh là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước [[Việt Nam]] của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.<ref name="duiker562"/>
[[Tập tin:Blue plaque Ho Chi Minh, Haymarket, London.jpg|nhỏ|phải|250px|Bia tưởng niệm tại Khách sạn Carlton, nơi Nguyễn Tất Thành làm việc năm [[1913]].]]
Tang lễ được tổ chức vào ngày [[9 tháng 9]] tại [[Quảng trường Ba Đình]] với hơn 100.000 người đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]]. Hàng triệu người trên khắp đất nước [[Việt Nam]] đã khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất [[Lê Duẩn]] đọc có những dòng sau:
Dòng 428:
}}
 
Trong [[Di chúc Hồ Chí Minh|di chúc]], Minhông muốn được [[hỏa táng]] và đặt tro tại ba miền đất nước.<ref>[http://web.archive.org/web/20071116122422/http://www.cpv.org.vn/details.asp?id=BT97055044 Di chúc Hồ Chí Minh trên trang web Đảng Cộng sản Việt Nam], truy cập 22 tháng 1 năm 2018.</ref><ref>Di chúc Hồ Chí Minh,[http://buitin.tripod.com/dichuchochiminh.pdf#search=%22dichuchochiminh.pdf%22 bản viết tay]</ref> Tuy nhiên, theo nguyện vọng của Đảng Lao động, Nhà nước và nhân dân Việt Nam,<ref>[https://archive.is/20130421184533/congannghean.vn/NewsDetails.aspx?NewsID=162&CategoryID=62 Vài nét về gìn giữ thi hài và xây dựng lăng Bác]</ref> Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này nhân dân cả nước, nhất là nhân dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng ông. Theo lời kể của con trai cả của Bí thư [[Lê Duẩn]], Lê Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy Hồ Chí Minh trở nên trầm ngâm.<ref>Thông báo số 151-TB/TW ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị BCH, dẫn tại {{chú thích báo|tên bài=Bác dặn trồng cây thay vì dựng bia đá, tượng đồng|tác phẩm=Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (trang TTĐT)|tác giả=Lê Kiên|nhà xuất bản=|ngày truy cập=22 tháng 1 năm 2018|trang=|ngày=17 tháng 5 năm 2009|ngày xuất bản=|nơi xuất bản=|url=http://phapluattp.vn/254039p0c1013/bac-dan-trong-cay-thay-vi-dung-bia-da-tuong-dong.htm}}
</ref><ref>Theo lời kể của con trai cả của [[Lê Duẩn]], Lê Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, và Hồ Chí Minh không nói gì.<br />Nguồn: [http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2008/4/148314/ Những mẩu chuyện nhỏ về Bác Hồ và Ba tôi], SGGP, 20/4/2008.</ref> Tổng Bí thư [[Lê Duẩn]] từng nói với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng [[Liên Xô]]:<ref>[http://toquoc.vn/dai-tuong-le-duc-anh-viet-ve-nguyen-tong-bi-thu-le-duan-99151345.htm Đại tướng Lê Đức Anh viết về nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn], Đại tá Khuất Biên Hòa (chắp bút), Báo điện tử Tổ Quốc, 08/07/2016 13:12.</ref>
:''Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc [[Việt Nam]] là thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào miền Nam, họ hy sinh chiến đấu để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho toại nguyện. Bác cũng rất muốn vào Nam gặp đồng bào Miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép. Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào Miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan của Bác sau ngày chiến thắng.''
 
Từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản trong [[Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh|lăng]] tại [[Hà Nội]], tương tự như đối với thi hài [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] ở [[Moskva]].<ref>Việc xây lăng chỉ được khởi sự từ năm [[1973]], tức là 4 năm sau khi ông [[qua đời]]. ''Nhớ anh Lê Đức Thọ''.</ref>
 
==Gia đình và cuộc sống cá nhân==
Dòng 438:
 
===Gia đình===
*Cha: [[Nguyễn Sinh Sắc]] (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy, người dân còn gọi là Cụ Phó bảng; 1862 – 1929). Ông là con của ông [[Nguyễn Sinh Nhậm]] và [[Hà Thị Hy]], là một nho sỹ có tiếng trong vùng, ông đỗ cử nhân năm 1894 và [[Phó bảng]] năm 1901.
*Mẹ: [[Hoàng Thị Loan]] (1868-1901). Bà là con của ông [[Hoàng Xuân Đường]] và [[Nguyễn Thị Kép]]
*Các anh chị em:
** Chị cả [[Bạch Liên nữ sĩ|Nguyễn Thị Thanh]] (1884 - 1954), có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, hoạt động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu.
**Anh trai [[Nguyễn Sinh Khiêm]] (1888 – 1950). LậpÔng lập gia đình với Nguyễn Thị Giáng (1897-1960) và có với nhau ba người con nhưng đều chết sớm.
**Em trai [[Nguyễn Sinh Nhuận]] (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin, là con trai út trong gia đình, sau khi sinh Nhuận thì Hoàng Thị Loan bệnh nặng và qua đời. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời mấy tháng sau đó.
 
===Hôn nhân===
[[Tập tin:Young zengxueming.jpg|nhỏ|trái|150px|Tăng Tuyết Minh]]
Cho tới nay, vẫn chưa có tài liệu nào từ phía [[Nhà nước Việt Nam]] cho rằng Hồ Chí Minh đã từng [[Hôn nhân|kết hôn]]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số sử gia ngoại quốc, Hồ Chí Minh đã kết hôn với [[Tăng Tuyết Minh]] ở [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]] năm [[1926]] cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc tháng 5 năm [[1927]], từ đó hai người không bao giờ còn gặp lại nhau.<ref>Hoàng Tranh (Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, Trung Quốc), "Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh", tạp chí ''Đông Nam Á Tung hoành'', số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc.</ref><ref name="brocheux">{{chú thích sách|author=Pierre Brocheux|title=Ho Chi Minh: A Biography|others=Claire Duiker|date=2007|publisher=Cambridge University Press|pages=39-40|url=http://books.google.com/books?id=fJtqjYiVbUAC&pg=RA2-PA216&dq=tang+tuyet+minh&sig=jMcFUeRmaJDPFaNiXctvL9gUWs8#PRA1-PA40,M1}}</ref> Theo Hoàng Tranh (Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, [[Trung Quốc]]), sau khi trở thành Chủ tịch Nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã thử tìm nhau thông qua tổ chức [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] và cơ quan ngoại giao [[Việt Nam]] tại [[Trung Quốc]] nhưng không thành công.<ref name=autogenerated1>[http://books.google.com.vn/books?id=fJtqjYiVbUAC&pg=RA2-PA216&dq=tang+tuyet+minh&sig=jMcFUeRmaJDPFaNiXctvL9gUWs8#PRA1-PA40,M1 Pierre Brocheux, Ho Chi Minh: A Biography, page 39-40, translate by Claire Duiker, 2007, Cambridge University Press]</ref><ref name="hoangtranh">Hoàng Tranh (Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, Trung Quốc), "Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh", tạp chí ''Đông Nam Á Tung hoành'', số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc.</ref> Một số Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, đặc biệt là [[Lê Duẩn]] phản đối việc này vì Hồ Chí Minh được nhân dân xem là [[cha già dân tộc]], việc đoàn tụ với [[Tăng Tuyết Minh]] sẽ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Hồ Chí Minh cũng như sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.<ref name="china"/>
 
Về vấn đề [[Tăng Tuyết Minh]], nhà nghiên cứu [[Sophie Quinn-Judge]] có ý kiến dè dặt hơn vì vào thời kỳ đó, đôi khi một cuộc [[hôn nhân]] diễn ra chỉ đơn thuần là tạo vỏ bọc cho những lý do chính trị; theo đó Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã sống chung với nhau như là cách [[ngụy trang]] để duy trì các hoạt động chính trị của họ.<ref name="BBC">[http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030902_hcm_missing_years.shtml Hồ Chí Minh - Những năm chưa biết đến],BBC online, 2 Tháng 9 2003.</ref>
 
Cũng theo Sophie Quinn-Judge, nếu căn cứ theo các tài liệu từ văn khố của [[Đệ Tam Quốc tế]] từ năm [[1934]] đến [[1935]], [[Nguyễn Thị Minh Khai]] từng nhận mình là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm [[1931]]. Khi Nguyễn Thị Minh Khai đến Moskva cuối năm [[1934]], đã viết rằng mình đã có gia đình với "Lin", bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm này.<ref name="Quinn-Judge">{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=XPMt03ckruUC&pg=PA183&dq=quinn-judge+%22Nguyen+Thi+Minh+Khai%22&hl=en&sa=X&ei=gosIUpSgKsOCyQG5xIB4&ved=0CC0Q6AEwAA#v=onepage&q=quinn-judge%20%22Nguyen%20Thi%20Minh%20Khai%22&f=false|title=Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919-1941|author=Sophie Quinn-Judge|pages=183|publisher=University of California Press|year=2002}}</ref> Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn với Ban Tiếng Việt BBC, Sophie Quinn-Judge cũng nói thêm rằng mình ''"không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không"'', vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại [[mật mã]], và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là "thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường" nên khó mà biết rõ đời tư của họ.<ref name="BBC"/> Ngoài ra, Sophie Quinn-Judge cũng tìm ra một bức thư mà [[Nguyễn Thị Minh Khai]] viết vào năm [[1933]], trong đó Nguyễn Thị Minh Khai khẳng định rằng mình không hề bị vướng bận bởi chuyện chồng con, vì "người chồng" duy nhất của bà chính là sự nghiệp Cách mạng.<ref name=autogenerated3>{{chú thích sách | last=Quinn-Judge | first=Sophie | date=2002 | title=''Hồ Chí Minh: The Missing Years'' | publisher=University of California Press}}</ref>
 
Theo Halberstam, năm [[1945]], Hồ Chí Minh từng nói với nhà báo [[Harold Isaacs]] rằng mìnhông cô đơn, không có gia đình, không có gì cả nhưng đã từng có một người vợ.<ref>[http://books.google.com.vn/books?id=1wjfay1cF8YC&pg=PA16&dq=%22During+the+evening+the+friend%27s+children%22&hl=en&sa=X&ei=dr3XUd6gBKOjiAKD6YGYCg&redir_esc=y#v=onepage&q=%22During%20the%20evening%20the%20friend%27s%20children%22&f=false Ho, page 16], David Halberstam, Rowman & Littlefield, 2007.</ref> Nhưng trong nhiều cuộc gặp mặt khác, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định ông không có vợ và sẽ không lấy vợ cho đến lúc dân tộc [[Việt Nam]] toàn thắng, thống nhất đất nước.<ref name="china"/><ref>Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: ''Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan'', Nhà Xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74, Ông [[Nguyễn Sinh Khiêm]] hỏi em mình ngày 3/11/1946: ''"Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?"'' Hồ Chí Minh trả lời: ''"Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà".''</ref><ref>Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40, Trích thư Hồ Chí Minh chia buồn với bác sĩ [[Vũ Đình Tụng]]: ''"Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái..."''</ref><ref>Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 5, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172, trích: ''"Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước [[Việt Nam]] là đại gia đình của tôi".''</ref><ref>[[Vũ Đình Hòa]], ''Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh'', Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151, Trích: "Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: ''"Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!""'' và đoạn Luật sư [[Phan Anh (luật sư)|Phan Anh]] đề nghị Hồ Chí Minh lập gia đình để có người săn sóc: ''"Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu. Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!"''</ref> Trong một buổi tiệc ở [[Bắc Kinh]] vào tháng 8 năm [[1959]], Hồ Chí Minh cũng đã tuyên bố với quan khách: chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, ông sẽ không bao giờ kết hôn.<ref name="china">[http://www.sdfao.gov.cn/art/2009/12/4/art_54_3563.html 胡志明和他的中国夫人曾雪明], Foreign Affairs Office of Shandong Provincial People's Government.</ref>
 
Trong các thư từ, bản thân Minhông cũng nhiều lần khẳng định rõ mìnhông là người không có gia đình riêng và không có con cái. Chẳng hạn như trong thư gửi bác sĩ [[Vũ Đình Tụng]] khi nghe tin con trai ngườiông này hi sinh:
{{cquote2|
''Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước [[Việt Nam]] là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.''<ref>[http://www.tapchihuongnghiep.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=3456 Một bức thư riêng của Hồ Chủ tịch], Tạp chí Hướng nghiệp & Hòa nhập.</ref>}}
 
===Cuộc sống cá nhân===
Hồ Chí Minh là người nghiện [[thuốc lá]] nặng. Trong buổi tiếp William C. Baggs, biên tập viên của ''Tin tức Miami'' tại [[Hà Nội]] đầu năm [[1967]], Minhông liên tục hút thuốc, loại thuốc lá [[Mỹ]] nhãn hiệu ''Salem''. MinhÔng ăn mặc đúng mực, lịch thiệp, nhạy cảm và không tạo áp lực lên người khác. Kiểu ăn mặc thường là áo pijama trắng cao cổ, đi dép cao su.<ref name="nytimes%2Ecom"/> Ông Harry Ashmore, người của Trung tâm nghiên cứu của các tổ chức dân chủ và cựu biên tập viên của ''Công báo Arkansas'' nhớ lại:
{{Cquote|
''...Ông Hồ là một người có phong thái tao nhã, rất tinh tế với một cách xử sự nhẹ nhàng và không có tâm địa cá nhân...''|||[[Harry Ashmore]]<ref name="nytimes%2Ecom"/>}}
[[Tập tin:Ho Chi Minh House 1463237026 5317a7aaed.jpg|nhỏ|trái|250px|Ngôi nhà của Hồ Chí Minh tại thủ đô [[Hà Nội]].]]
Ngày [[19 tháng 5]] năm [[1946]], sinh nhật Hồ Chí Minh lần đầu tiên được tổ chức nhằm mục đích nâng cao tinh thần đoàn kết dân tộc. Dù là người đứng đầu một nước nhưng sinh nhật của ông được tổ chức rất đơn sơ, giản dị và mộc mạc. Những năm sau đó, sinh nhật Minhcủa ông thường chỉ được tổ chức vào năm chẵn, còn các năm khác thì ông thường lặng lẽ tổ chức một bữa "ăn tươi" nho nhỏ với vài cán bộ thân cận. Trong hai lần sinh nhật cuối đời, Hồ Chí Minh đều lấy dự thảo di chúc ra sửa lại.<ref>{{Chú thích web | url = http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nhung-sinh-nhat-gian-di-cua-chu-tich-ho-chi-minh-2162615.html | tiêu đề = Những sinh nhật giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh | tác giả = Tiến Dũng | nhà xuất bản = VnExpress | ngày tháng = 18 tháng 5 năm 2010 | ngày truy cập = ngày 29 tháng 10 năm 2015}}</ref> Tuy ông là chủ tịch của một nước nhưng đời sống sinh hoạt hằng ngày cũng chẳng khác mấy so với người thường. MinhÔng sống trong một căn nhà sàn,. có bữaBữa ăn đạm bạc của ông đã được nhận xét là rất giản dị và đơn sơ với thức ăn đạm bạc, mộc mạc, dân dã như bao người dân [[Việt Nam]] khác và theo Thủ tướng [[Phạm Văn Đồng]], người đã nhiều lần ăn chung với ông, nhận xét Minhông ăn vừa đủ không bỏ món thừa và ăn không sót một hột cơm vì ông tôn trọng thành quả lao động của nông dân.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.lamdong.gov.vn/vi-vn/a/hoctaphcm/mau-chuyen/pages/chuyen-nhung-bua-com-cua-bac-ho.aspx|tiêu đề=Chuyện về những bữa cơm của Bác Hồ.|ngày truy cập = ngày 28 tháng 8 năm 2010}}</ref>
 
Hồ Chí Minh là người rất chăm tập thể dục và thích chăm sóc cây cối, là người có cuộc sống khá điều độ, tuy có tật hút [[thuốc lá]] đến 2 năm cuối đời mới bỏ được.
 
Theo Giáo sư Hoàng Chí Bảo, Hồ Chí Minh nói được 29 thứ tiếng, chưa kể tiếng đồng bào các tộc người ở [[Việt Nam]],<ref name=bdv>[http://baodatviet.vn/giao-duc/chuyen-giao-duc/bac-ho-va-nghe-thuat-hoc-29-ngoai-ngu-3268938/ Bác Hồ và nghệ thuật học 29 ngoại ngữ - DVO - Báo Đất Việt<!-- Bot generated title -->]</ref> trong đó ông nói thành thạo các thứ tiếng gồm: [[Nga]], [[Pháp]], [[Trung Quốc]], [[Anh]], [[Ý]]. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7, Hồ Chí Minh được miêu tả: ''"Biết các thứ tiếng: [[Pháp]], [[Anh]], [[Trung Quốc]], [[Ý]], [[Đức]], [[Nga]], [[Tây Ban Nha]] và [[Bồ Đào Nha]]"''. Bên cạnh đó, theo lịch sử ghi chép về các chuyến công du nước ngoài hoặc tiếp đón ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có khả năng nói [[Tiếng Xiêm]] ([[Thái Lan]] bây giờ), tiếng [[Tây Ban Nha]], tiếng [[Tiếng Ả Rập|Ả Rập]].<ref name=bdv/> Tuy nhiên, theo nhà phê bình văn học Thụy Khuê thì trình độ tiếng Pháp của ông ở mức cơ bản, thậm chí còn trích dẫn báo cáo ngày 20/1/1921 của điều tra viên Josselme rằng: "Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc đều thấy một sự thực hiển nhiên: Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc."<ref>{{Citation| first =Thụy Khuê| publication-date = 2012| title = Nhân văn Giai phẩm Và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc| publication-place = Virginia, USA | publisher = nhà xuất bản Tiếng Quê Hương| page =498}}</ref>
 
==Tư tưởng Hồ Chí Minh==
Dòng 474:
{{xem thêm|Chủ nghĩa cộng sản}}
[[Tập tin:Tutuonghcm.JPG|nhỏ|Giáo trình ''Tư tưởng Hồ Chí Minh'' do [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]] xuất bản.]]
Là một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở [[Đông Nam Á]], theo Clark D. Neher, Hồ Chí Minh đã kết hợp [[chủ nghĩa Marx-Lenin]] với [[chủ nghĩa dân tộc]] Việt Nam]].<ref>Clark D. Neher, ''Southeast Asia: crossroads of the world'', trang 166.</ref> Tư tưởng chủ đạo trong các cuộc đấu tranh của Hồ Chí Minh là kết hợp ''cách mạng giải phóng dân tộc'' với ''cách mạng vô sản''. MinhÔng đi theo trào lưu [[chủ nghĩa cộng sản]] do [[Karl Marx]] và [[Friedrich Engels]] đề xuất vốn đang nổi lên vào thời của mìnhông. MinhÔng tiếp nhận tư tưởng của [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] về vấn đề thuộc địa, và xem đó làm kim chỉ nam cho các hoạt động của mình sau này.<ref name="Chí Minh p 10">Hồ Chí Minh: ''Toàn tập'', [[Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật|Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia]], tập 10, trang 128.</ref> ViếtÔng viết trên tạp chí ''Các vấn đề phương Đông'' ([[Liên Xô]]), dẫn lại trên [[Nhân Dân (báo)|báo Nhân dân]] ngày [[22 tháng 4]] năm [[1960]]: ''"Chủ nghĩa Lenin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân [[Việt Nam]], không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"''.<ref name="Chí Minh p 10"/>Ông xác định ''Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc''<ref>[http://tuyengiaoangiang.vn/index.php/lam-theo-guong-bac/3204-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-giai-phong-dan-toc-giai-phong-giai-cap-giai-phong-con-nguoi Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người</ref>''Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''<ref>[http://baolaocai.vn/chinh-tri/bai-2-ho-chi-minh-co-phai-la-nguoi-theo-chu-nghia-dan-toc-z1n20200104083634865.htm Bài 2: Hồ Chí Minh có phải là người theo chủ nghĩa dân tộc?]</ref>
 
Nhiều lần ông bảo: ''"bệnh quan liêu, mệnh lệnh chỉ đưa đến kết quả là hỏng việc và thực hành dân chủ rộng rãi cũng là cách chống quan liêu tích cực"''. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đề nghị tất cả mọi người đều tuân theo 6 điều: ''"Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo"''.<ref name="danchu">[http://www.dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30456&cn_id=201609#K8drQIVmz8xH Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong công tác lãnh đạo]</ref>
 
Hồ Chí Minh cũng cho rằng:<ref name="danchu"/>
Dòng 482:
''Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra.''|||Hồ Chí Minh
}}
Về giáo dục, ông là người rất quan tâm đến cách dạy học cụ thể và thiết thế. MinhÔng cho rằng:<ref name="cpvgiaod"/>
{{cquote|
''Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và xây dựng nước [[Việt Nam]] yêu quý của chúng ta''.|||Hồ Chí Minh
}}
Năm [[1955]], trong Lễ Khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày [[19 tháng 1]], Minhông có bài nói chuyện với những sinh viên cũng như thanh niên. Trong bài nói chuyện này có đoạn (tổng thống Mỹ [[John F. Kennedy]] sau này cũng có ý tưởng tương tự trong diễn văn nhậm chức năm [[1961]]):<ref>[http://web.archive.org/web/20100522050829/http://vietnamnet.vn/giaoduc/201005/Tran-Van-Nhung-910995/ Hồ Chí Minh 'đi trước' UNESCO?], theo bài viết của Giáo sư Trần Văn Nhung.{{dead link}}</ref>
{{Tin nhắn|''Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?''}}
Theo Hồ Chí Minh, đồng bào lương hay giáo đều là người [[Việt Nam]], cách mạng là sự nghiệp chung không phải chỉ của một, hai người: ''"Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh"''.
 
==Sùng bái cá nhân==
Việt Nam đã và đang duy trì sự sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Về quy mô, nó có thể so sánh theo nhiều cách với sự [[sùng bái cá nhân]] đối với [[Sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông|Mao Trạch Đông]] ở [[Trung Quốc]] và [[Sùng bái lãnh tụ ở Bắc Triều Tiên|Kim Nhật Thành/Kim Chính Nhật]] ở [[Bắc Triều Tiên]]. Thi hài của Hồ Chí Minh được bảo quản trong [[Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh|một lăng mộ đồ sộ]], hình ảnh của ông được treo ở nơi trang trọng trong mỗi tòa nhà công cộng và trường học, và những hình thức tỏ lòng tôn kính khác, một số là không chính thức, đạt tới mức "tôn thờ".<ref>Marsh, Viv (6 June 2012). "Uncle Ho's legacy lives on in Vietnam". BBC News. Retrieved 2 December 2012.</ref> Ảnh của Hồ Chí Minh xuất hiện trên một số bàn thờ gia đình và có ít nhất một ngôi đền dành riêng cho ông, được xây dựng tại [[Bạc Liêu]] do [[Việt Cộng]] kiểm soát ngay sau khi ông qua đời).<ref>{{chú thích web | url = https://dantri.com.vn/xa-hoi/tha-hy-sinh-tinh-mang-quyet-giu-den-tho-bac-ho-giua-long-dich-20190901204316818.htm | tiêu đề = Thà hy sinh tính mạng, quyết giữ Đền thờ Bác Hồ giữa lòng địch | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 12 năm 2019 | nơi xuất bản = [[Dân trí (báo)|Báo điện tử Dân Trí]] | ngôn ngữ = }}</ref>
 
Chính quyền Việt Nam nhạy cảm với bất cứ điều gì có thể gây tranh cãi đối với tiểu sử chính thức của ông. Điều này bao gồm các tài liệu tham khảo về đời sống tình cảm cá nhân của Hồ Chí Minh, mà có thể làm mất đi hình ảnh của vị "cha già cách mạng" tận tụy,"người độc thân suốt đời, chỉ [[kết hôn]] với sự nghiệp cách mạng".<ref name="Baker">{{cite news|last=Baker|first=Mark|title=Uncle Ho: a legend on the battlefield and in the boudoir|url=http://www.smh.com.au/articles/2002/08/14/1029113957710.html|accessdate=25 December 2013|newspaper=The Sydney Morning Herald|date=15 August 2002}}</ref> William Duiker trong tác phẩm ''Ho Chi Minh: A Life'' (2000) đã thẳng thắn nói về các mối quan hệ tình cảm riêng tư của Hồ Chí Minh. Chính phủ Việt Nam đã tìm cách cắt bớt bản dịch tiếng Việt của tác phẩm này với lý do "nội dung không phù hợp"<ref name="theage">{{cite news |url=http://www.theage.com.au/articles/2002/08/14/1029113955533.html|title=Great 'Uncle Ho' may have been a mere mortal|date=15 August 2002|newspaper=The Age|accessdate=2 August 2009}}</ref> và cấm phân phối một số ra của Tạp chí kinh tế Viễn Đông, mà đã có một bài viết nhỏ về nội dung Hồ Chí Minh có [[vợ]] gây tranh cãi.<ref name=theage/>
 
==Di sản==
[[Tập tin:Lăng Bác.JPG|trái|nhỏ|250px|Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh]]
Tại [[Việt Nam]], Hồ Chí Minh được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, đóông là một nhà yêu nước đã vận dụng [[chủ nghĩa Marx-Lenin]] vào công cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|giải phóng dân tộc]] thoát khỏi ách [[chủ nghĩa thực dân|thực dân]] và [[đế quốc]]. Nhà yêu nước ấy có tínhTính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến. Giáo sư [[David Thomas]] cho rằng: ''"Chính viễn kiến của ông, sự hy sinh, tính bền bỉ và sự lãnh đạo của ông trong một nước nghèo nàn, lạc hậu đã thúc đẩy người [[Việt Nam]] đứng dậy, đánh thắng [[thực dân Pháp]] và [[quân đội Mỹ]]".'' Cũng chính giáo sư này xem Hồ Chí Minh là một nhân vật trong thời kỳ [[Phục Hưng]], là người nói giỏi không ít ngoại ngữ, lại còn viết được thơ bằng [[chữ Hán]]. Trong đời, Hồ Chí Minh đã tham khảo những danh nhân về văn học và triết học như [[Victor Hugo]], [[Charles Dickens]], [[Lev Nikolayevich Tolstoy|Lev Tolstoy]] hay [[Fyodor Mikhailovich Dostoevsky|Dostoevsky]] thông qua các tài liệu bằng ngôn ngữ bản xứ của họ. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng ''"Họ [Chính phủ Việt Nam] đã thánh hóa hình ảnh của Hồ Chí Minh, biến ông thành một vị thánh và điều đó khiến việc có được bức tranh thực và đầy đủ về cuộc đời ông trở thành bất khả".''<ref name="david">BBC [http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2005/05/050517_davidhochiminh.shtml Quan điểm của David Thomas về Hồ Chí Minh]</ref>
 
Nhiều người dân [[Việt Nam]] yêu quý ông, gọi Hồ Chí Minhông bằng cái tên thân mật '''Bác Hồ'''. Trong văn thơ, Hồ Chí Minh còn được gọi là "[[Cha già dân tộc]]". Một số [[Các dân tộc tại Việt Nam|dân tộc thiểu số]] Việt Nam, như [[Người Bru - Vân Kiều|Vân Kiều]], [[Người Tà Ôi|Pa Cô]], [[Người Co|Kor]], đã lấy họ của mình là họ Hồ vì yêu quý Bác Hồông.<ref>{{Chú thích web |url=http://baotintuc.vn/dan-toc/42-nam-nguoi-kor-o-tra-bong-mang-ho-bac-ho-20110519001757117.htm |tiêu đề=42 năm người Kor ở Trà Bồng mang họ Bác Hồ |nhà xuất bản=baotintuc.vn |ngày tháng=19 tháng 5 năm 2011 |tác giả=Nguyễn Đăng Lâm |ngày truy cập = ngày 3 tháng 6 năm 2011}}</ref> Bác HồÔng được thờ tại nhiều gia đình Việt Nam,<ref name=dantriabc /><ref>[http://www.baoanhdatmui.vn/vcms/html/news_detail.php?nid=3895 Tấm lòng Cà Mau với Bác Hồ], Đất Mũi Online, 19/05/2007, truy nhập ngày 18/11/2008.</ref> cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở [[Thái Lan]],<ref name="HNM-th%E1%BB%9D">[http://web.archive.org/web/20071019235307/http://www.hanoimoi.com.vn/vn/66/143420/ Tổ quốc và Bác Hồ trong lòng bà con Việt kiều]{{dead link|date=November 2010}}, Hà Nội mới, 06/09/2007, truy nhập ngày 18/11/2008.</ref> [[Lào]],...<ref>[http://web.archive.org/web/20080229175458/http://www3.tuoitre.com.vn/TheoguongBac/ArticleView.aspx?ChannelID=7&ArticleID=193496 Ngôi đền thiêng ở Pakse]{{dead link|date=November 2010}}, Tuổi Trẻ, 28/03/2007, truy nhập ngày 18/11/2008.</ref> [[Na Uy]], [[Mỹ]]...<ref>[[Nguyễn Quang Thiều]], [http://vietimes.com.vn/vn/tinhcachviet/4191/index.viet Về những người đặc biệt trong một gia đình họ Mai (Phần I)], Viettimes, 20/12/2007, VietNamNet, truy nhập 18/11/2008.</ref>
[[Tập tin:Ho Chi Minh vnzla.jpg|nhỏ|250px|Tượng bán thân Hồ Chí Minh trên đại lộ [[Simón Bolívar|Simon Bolivar]], [[Caracas]], [[Venezuela]]]]
Nhà yêu nước cách mạng [[Việt Nam]] nổi tiếng thuộc thế hệ trước là [[Huỳnh Thúc Kháng]], năm [[1946]] là Hội trưởng Hội Quốc dân Việt Nam, đã nhận xét: ''"Hồ Chí Minh tiên sinh là bậc yêu nước đại chí sĩ, là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia, chân đi khắp năm châu, mắt trông xa vạn dặm. Nói về bằng cấp thì cụ Hồ không là [[Tiến sĩ]], Phó Bảng gì cả. Nhưng nói về tri thức và sự nghiệp cách mạng thì chắc chắn lớp chúng ta cũng như lớp trước chúng ta không ai bì kịp. Tôi đã vào loại sáng nhưng cụ Hồ lại sáng hơn tôi nhiều. Cụ Hồ rất vì đại nghĩa, là một tay cao cờ, dưới lại có đội ngũ những người giúp việc tài năng, thông minh lắm, giỏi giang lắm, tin tưởng lắm, nhất định sẽ đưa dân tộc ta đến toàn thắng".''<ref>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/chuyen-nguoi-chuyen-ta/ Chuyện người chuyện ta - Tuần báo Văn Nghệ TP.HCM<!-- Bot generated title -->]</ref> Năm [[1947]], trước lúc qua đời, [[Huỳnh Thúc Kháng]] tin tưởng rằng Hồ Chí Minh sẽ dẫn dắt dân tộc [[Việt Nam]] đi đến kháng chiến thắng lợi: ''"Tôi tiếc không được gặp Cụ Hồ lần cuối. Chúc Cụ sống lâu muôn tuổi để dẫn dắt nhân dân đến vinh quang, hạnh phúc".''<ref>[http://quangnam.gov.vn/CMSPages/BaiViet/Default.aspx?IDBaiViet=5973 Câu đối cụ Huỳnh Thúc Kháng mừng thọ Bác Hồ]</ref>
Dòng 505:
Với chiến thắng quyết định ở [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|trận Điện Biên Phủ]], những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở [[Bắc Phi]] và [[Tây Phi]] cũng theo gương [[Việt Nam]] nổi dậy. Hồ Chí Minh được người dân ở những nước này rất kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ.
 
Tuy nhiên, tại một số cộng đồng [[Việt kiều|người Việt hải ngoại]] có tư tưởng chống Cộng, đặc biệt là ở [[Hoa Kỳ]] mà đa phần là những người rời khỏi [[Việt Nam]] sau [[sự kiện 30 tháng 4 năm 1975]], hình ảnh của Hồ Chí Minhông bị phản đối mãnh liệt. Năm [[1999]], khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại [[Little Saigon]], hàng vạn [[người Mỹ gốc Việt]] và cựu binh [[Hoa Kỳ]] tại Việt Nam đã tham gia [[Vụ Trần Trường|biểu tình phản đối]], gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề [[tự do ngôn luận]] tại Hoa Kỳ.<ref>{{Chú thích web
|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/285059.stm
|tiêu đề=Thousands of Vietnamese protest in California at Ho Chi Minh portrait
Dòng 532:
|date=16 tháng 3 năm 2000
|publisher=San Francisco Chronicle
|accessdate = ngày 2 tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong một hành động phản đối chuyến thăm của [[Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch Nước]] [[Việt Nam]] [[Nguyễn Minh Triết]] tới [[Hoa Kỳ]], hình nộm của Hồ Chí Minh bị đem ra treo cổ còn hình ảnh thìông bị giẫm đạp, một số cuộc biểu tình phản đối chính quyền [[Việt Nam]] tại [[Hoa Kỳ]] cũng có những hành động tương tự.<ref name="cnn-oakland" /><ref name="nguoi-viet">{{chú thích báo
|title=Phóng sự ảnh mới tại Nam California: Cộng đồng Việt Nam chống Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết
|publisher=Báo Người Việt
Dòng 553:
====Trong nước====
[[Tập tin:Bác Hồ với Thiếu nhi.jpg|phải|nhỏ|250px|Tượng ''Bác Hồ với thiếu nhi'' của [[Diệp Minh Châu]] tại TP. Hồ Chí Minh.]]
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, [[Phủ Chủ tịch|Phủ Toàn quyền Đông Dương]] bên cạnh [[Quảng trường Ba Đình]], nơi ông đã đọc [[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]] được chọn là nơi làm việc của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng]], [[Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Nhà nước]] và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của [[Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chủ tịch Nước]]. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành [[Khu di tích Phủ Chủ tịch|Khu Di tích Phủ Chủ tịch]]. Khu này là nơi Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mìnhông - từ [[19 tháng 12]] năm [[1954]] đến [[2 tháng 9]] năm [[1969]] (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong [[lịch sử Việt Nam]]). Khu Di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước. Một công trình khác là [[Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh]], mỗi tuần có hơn 15.000 người đến đây viếng thăm,<ref>William J. Duiker, ''Ho Chi Minh, A Life'', 2000: More than 15000 visit the mausoleum each week.</ref> trong đó có nhiều nguyên thủ quốc gia.
 
[[File:Ho Chi Minh statue and flag of Vietnam.jpg|nhỏ|250px|Tượng bán thân Hồ Chí Minh và [[quốc kỳ Việt Nam]] thường xuất hiện trong các buổi lễ nhà nước]]
 
[[Bảo tàng Hồ Chí Minh]] tại [[Hà Nội]] là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất [[Việt Nam]]. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm người ấyông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là [[Bến Nhà Rồng]] tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]], nơi người ấyông đã xuống tàu "Đô đốc Latouche Tréville" ra đi năm [[1910]], và Nhà Tưởng niệm xây dựng năm [[1970]] ở quê nội của ông, huyện Nam Đàn, tỉnh [[Nghệ An]].
[[Tập tin:Congvienchienthang.JPG|trái|nhỏ|250px|Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thành phố [[Sa Đéc]].]]
NămNhằm tôn vinh ông, năm [[1976]], Kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày [[Việt Nam]] thống nhất đã quyết định đổi tên [[Thành phố Hồ Chí Minh|thành phố Sài Gòn]] thành [[Thành phố Hồ Chí Minh]].
 
Tên Hồ Chí Minh còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý của Nhà nước [[Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam]]: [[Huân chương Hồ Chí Minh]] là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; [[Giải thưởng Hồ Chí Minh]] là giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực [[khoa học]] và [[công nghệ]]. "[[Cháu ngoan Bác Hồ]]" là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên cũngông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: [[Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh]], [[Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh]].
[[Tập tin:500000 polymer.jpg|nhỏ|250px|Mọi tờ [[tiền giấy]] tại Việt Nam hiện nay đều in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh.|thế=]]
Các tên ''Hồ Chí Minh'', ''Nguyễn Ái Quốc'' hay ''Nguyễn Tất Thành'' còn được đặt cho nhiều [[công trình công cộng]], như [[đường Hồ Chí Minh|đường quốc lộ]], quảng trường, [[đường phố]], [[trường học]].
 
[[Hình ảnh]] và tượng Bác Hồông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các [[đồng (tiền)|đồng tiền giấy]] đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với [[quốc kỳ Việt Nam|quốc kỳ]], tượng bán thân hoặc hình Hồ Chí Minh được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại [[Việt Nam]].
 
====Quốc tế====
Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh,<ref>{{Chú thích web|url=http://quangnam.gov.vn/CMSPages/BaiViet/Default.aspx?IDBaiViet=6623|tiêu đề=Tượng đài và các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thế giới|ngày truy cập = ngày 25 tháng 6 năm 2011}}</ref> chẳng hạn như ở [[Pháp]]<ref>{{Chú thích web|url=http://thethao.tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/398930/%E2%80%9CKhong-gian-Ho-Chi-Minh%E2%80%9D-o-Paris.html|tiêu đề="Không gian Hồ Chí Minh" ở Paris|ngày truy cập = ngày 25 tháng 6 năm 2011 |url lưu trữ=https://archive.is/JpVYr|ngày lưu trữ = ngày 27 tháng 6 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://old.vtv.vn/Article/Get/Khong-gian-Ho-Chi-Minh-o-Phap-77f3c89e2a.html|tiêu đề= "Không gian Hồ Chí Minh" trên đất Pháp|ngày truy cập = ngày 25 tháng 6 năm 2011}}</ref> hoặc [[Anh]] (khách sạn Carlton – nơi Hồ Chí Minh từng cào [[tuyết]] kiếm sống - được gắn 1 tấm bảng kỷ niệm ông), [[Thái Lan]] (nhà lưu niệm Hồ Chí Minh do [[Việt kiều]] tại đây quyên góp xây dựng).
 
Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại [[Việt Nam]], Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số [[đền]], [[Chùa Việt Nam|chùa]] và trên bàn thờ của mỗi [[gia đình]]. Ngoài phạm vi [[Việt Nam]], Hồ Chí Minh được tưởng niệm tại nhiều công trình trên [[thế giới]].<ref name="LAMDONG">[http://www.lamdong.gov.vn/vi-VN/a/hoctaphcm/tuong-niem/Pages/Tuong-dai-tren-the-gioi.aspx Tượng đài và các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thế giới]</ref> cùng cáiTên tênông đã được đặt cho các đại lộ tại [[Luanda]] ([[Angola]]), tại [[Ouagadougou]] ([[Burkina Faso]]) và tại [[Maputo]] ([[Mozambique]]). Tại [[Berkeley, California]], nơi có nhiều cuộc biểu tình chống [[chiến tranh Việt Nam]], nhiều nhà hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là ''Công viên Hồ Chí Minh'' như một cách không chính thức.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ci.berkeley.ca.us/ContentDisplay.aspx?id=12952|tiêu đề=Parks: Willard Park - City of Berkeley, CA|tác giả=City of Berkeley|ngày truy cập = ngày 24 tháng 5 năm 2009}}</ref>
 
Nhiều nước trên thế giới đã phát hành [[tem thư|tem bưu chính]] kỷ niệm Hồ Chí Minhông như ở: [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]], [[Ấn Độ]], [[Lào]], [[Madagascar]], [[Algérie]], [[Cuba]], [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]], [[Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]], [[Quần đảo Marshall]], [[Dominica]],... Tượng đài Hồ Chí Minhông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có [[La Habana]] ([[Cuba]]), [[Tượng đài Hồ Chí Minh (Moskva)|Moskva]] ([[Nga]]), [[Zalaegerszeg]] ([[Hungary]]), [[Montreuil, Seine-Saint-Denis|Montreuil]] ([[Pháp]]), [[Kolkata|Calcutta]] ([[Ấn Độ]]), [[Antananarivo]] ([[Madagascar]]),<ref>{{chú thích báo
|url=http://www.vietnamplus.vn/Home/Le-thuong-co-Viet-Nam-tai-San-Francisco-nhan-29/20129/157690.vnplus
|title=Lễ thượng cờ Việt Nam tại San Francisco nhân 2/9
Dòng 590:
</blockquote>
 
Đề cử của đoàn Việt Nam đã được Đại Hội đồng khóa 24 (họp từ ngày 20 tháng 10 tới ngày 20 tháng 11 năm 1987) của [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc|UNESCO]] thông qua và ban hành dưới dạng Nghị quyết, quyển số 01. Dưới sự chủ tọa của ông [[Guillermo Putzeys Alvarez]], điều hành khóa họp và ông [[Amadou-Mahtar M'Bow]] (Chủ tịch UNESCO nhiệm kỳ [[1974]]-[[1987]]), đã thông qua ''Nghị quyết số 24C/18.65'' về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 
Cụm từ "Anh hùng giải phóng đất nước và danh nhân văn hóa người Việt" (''Vietnamese hero of national liberation and great man of culture'') xuất hiện 1 lần tại mục '''''Lưu ý''''' trong đề cử của đoàn [[Việt Nam]], văn kiện khóa họp 24. Cụm từ "danh nhân văn hóa" (''great man of culture'') xuất hiện tổng cộng 3 lần trong cơ sở dữ liệu của [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc|UNESCO]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.unesco.org/new/en/unesco/resources/online-materials/publications/unesdoc-database//|tiêu đề=UNESCO Document Database}}</ref> từ năm [[1974]] – nay ([[2017]]):
Dòng 597:
# Lần thứ ba: năm [[2001]], văn bản kỳ họp Đại Hội đồng lần thứ 31, ông [[Phạm Văn Khiêm]] nhắc lại cụm từ này khi nói về Hồ Chí Minh trong phát biểu của mình.<ref>{{Chú thích web|url=http://unesdoc.unesco.org/images/0012/001289/128966m.pdf|tiêu đề=The 31st General Conference}}</ref>
 
Tuy nhiên do sự phản đối của một số người tại [[Pháp]],<ref name=rfa>[http://www.rfa.org/vietnamese/people_stories/Has_UNESCO_honored_HoChiMinh_NAn-05192008110454.html?searchterm=None UNESCO có vinh danh ông Hồ Chí Minh hay không ?, RFA]</ref> để tránh rắc rối chính trị nên UNESCO đã không in tên ông trong Lịch kỷ niệm năm 1990-1991<ref>{{Chú thích web|url=http://unesdoc.unesco.org/images/0008/000844/084401EB.pdf|tiêu đề=Anniversaries of great personalities and historic events 1990-1991}}. Lịch kỷ niệm 1990-1991 là hướng dẫn cho Phòng Thư ký của xuất bản báo chí và chuẩn bị các chương trình hoạt động của UNESCO trong năm 1990-1991, theo nghị quyết 12/C, 5.241 khoản (C); và nghị quyết 18/C, 4.351 khoản (C).</ref> Trong cuốn sách Contesting Indochina của M. Kathryn Edwards,<ref>{{Chú thích web|url=http://www2.tulane.edu/liberal-arts/history/m-kathryn-edwards.cfm|tiêu đề=M. Kathryn Edwards}}</ref> Phó Giáo sư Sử học Pháp tại [https://en.wikipedia.org/wiki/Tulane_University Đại học Tulane] có nói đề cử vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO bị chống đối mạnh từ Hội Cựu chiến binh Quốc gia và bạn bè Đông Dương (''Association nationale des anciens et amis de l’Indochine'' – ANAI, một tổ chức gồm các cựu binh [[quân đội Pháp]] từng tham chiến ở Việt Nam giai đoạn [[1945]]–[[1954]], năm [[2012]] đã bị giải thể):<ref>http://www.anapi.asso.fr/SITE ANAI/www.anai-asso.org/NET/document/anai/index.html</ref> ''"Vào năm 1988-89, Hội (ANAI) đã tổ chức một chiến dịch thành công chống lại đề xuất của UNESCO kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của Hồ Chí Minh đã được lên kế hoạch cho năm [[1990]]; mặc dù Hội thừa nhận ông Hồ là một "người đàn ông trung thực" và một "người yêu nước", Hội cũng xem ông là một "thủ phạm của tội ác chống lại loài người, chống lại chính người dân của mình, và chống lại quân đội nước ngoài" (chỉ [[quân đội Pháp]]). Vấn đề được đưa ra [[Quốc hội Pháp]] bởi đại diện cánh hữu [https://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89ric_Raoult Eric Raoult] (thuộc [https://en.wikipedia.org/wiki/Union_for_a_Popular_Movement Đảng liên minh vì phong trào nhân dân, UMP]), người đã trình Quốc hội với quan điểm gần như hoàn toàn tương đồng với ANAI. Ông còn lập luận xa hơn rằng Quốc hội đang tranh luận xem có thiết lập tình trạng "tù binh của [[Việt Minh]]" hay không, nó có vẻ vô lý khi vinh danh người đã chịu trách nhiệm cho việc đối xử với các tù binh Pháp này. Cuối cùng, [[Chính phủ Pháp]] đã ra quyết định bãi bỏ những lễ kỷ niệm cấp nhà nước cho sinh nhật 100 [của Hồ Chí Minh]".''<ref>{{chú thích sách|last1=Edwards|first1=M. Kathryn|title=Contesting Indochina|publisher=University of California Press; Reprint edition (ngày 21 tháng 6 năm 2016)|isbn=0520288610|page=96}}</ref><ref>In 1988–89 the group successfully led a campaign against UNESCO’s proposal for a celebration of the centenary of Ho Chi Minh’s birth planned for 1990; though the group acknowledged Ho as an “honest man” and a “patriot,” they also viewed him as a perpetrator of crimes against humanity, against his own people, and against foreign troops.⁵³ The issue was taken up at the National Assembly by right-wing representative Eric Raoult (of the Union pour un mouvement populaire, or UMP, party), who presented it in virtually the same terms as the ANAI had. He further argued that since the Assembly was in the midst of debating whether to establish the status of “prisoner of the Viet Minh,” it seemed absurd to contemplate honoring the man responsible for the treatment of those same prisoners.</ref>
 
Trong cuốn sách về tiểu sử Hồ Chí Minh của [[Pierre Brocheux]] cũng có nhắc đến sự kiện kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh tại trụ sở chính của UNESCO ở [[Paris]], sau khi đề cử của Việt Nam được Nghị quyết UNESCO thông qua, với khuyến nghị các nước thành viên tưởng nhớ ''"tư tưởng và thành quả của Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng dân tộc".''<ref>[https://books.google.com.vn/books?id=fJtqjYiVbUAC&pg=PA205&dq=ho+chi+minh+unesco+national+liberation&hl=vi&sa=X&redir_esc=y#v=onepage&q=ho%20chi%20minh%20unesco%20national%20liberation&f=false Ho Chi Minh: A Biography]</ref>
 
Tại hội thảo quốc tế ''“Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa lớn”'' ở Hà Nội tháng 3 năm 1990, Giám đốc [[UNESCO]] khu vực [[Châu Á-Thái Bình Dương|châu Á – Thái Bình Dương]] [[Modagat Ahmet]] phát biểu: ''“Hội nghị UNESCO phiên thứ 24 đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người vào năm [[1990]]. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập. [[UNESCO]] rất vui mừng được tham gia vào sự kiện đáng ghi nhớ này. Điều đó biểu hiện sự cam kết sâu sắc của tổ chức này trong việc duy trì các giá trị và công lao của các nhân vật vĩ đại được [[nhân loại]] công nhận và kính trọng”.''<ref>[http://nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/18372502-.html Về nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Báo Nhân Dân - Phiên bản tiếng Việt<!-- Bot generated title -->]</ref> Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Văn phòng [[UNESCO]] tại [[Hà Nội]] đã tham gia một triển lãm ảnh và hội nghị quốc tế kỷ niệm 30 năm UNESCO ban hành Nghị quyết 24C/18.65, Đại diện [[UNESCO]] tại [[Việt Nam]] là ông Michael Croft bày tỏ: ''“Đối với tôi, thiên tài của Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là sự hiểu biết và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài để giải phóng dân tộc, mà còn là sự dự đoán, cân nhắc những yêu cầu của một hòa bình trong tương lai, và kết hợp các yếu tố này vào việc ra quyết định của mình.”'' Trước đó, Tổng giám đốc UNESCO, bà [[Irina Bokova]], cũng bày tỏ cảm hứng về Hồ Chí Minh trong bài phát biểu kỷ niệm Nghị quyết do đoàn đại biểu thường trực Việt Nam tổ chức tại UNESCO vào ngày 13 tháng 11 năm 2017 tại [[Paris]], [[Pháp]].<ref>[http://www.unesco.org/new/en/hanoi/about-the-ha-noi-office/single-view/news/celebrating_the_30th_anniversary_of_the_unesco_resolution_ho/ Celebrating the 30th anniversary of the UNESCO Resolution honouring President Ho Chi Minh | United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
Văn bản gốc đề cử kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Hồ Chí Minh của Việt Nam được in trong ''"Tập biên bản của Ðại Hội đồng UNESCO khóa họp lần thứ 24 tại Paris, từ ngày 20-10 đến 20-11 năm 1987, Quyển 1: NGHỊ QUYẾT"'', được UNESCO xuất bản đồng thời bằng 6 thứ tiếng ([[tiếng Pháp]], [[tiếng Anh]], [[tiếng Ả Rập]], [[tiếng Trung Quốc]], [[tiếng Tây Ban Nha]] và [[tiếng Nga]]), được in và đóng quyển tại xưởng in của UNESCO, Paris, vào năm [[1988]]. Năm [[2010]], văn bản gốc bằng [[tiếng Pháp]] của bản Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh của UNESCO đã được Tổng Giám đốc UNESCO là [[Irina Bokova]] trao tặng cho [[Bảo tàng Hồ Chí Minh]] để trưng bày.<ref>{{Chú thích web|url=http://unesdoc.unesco.org/images/0018/001895/189558e.pdf|tiêu đề=Nguyên văn phát biểu của bà Irina Bokova}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Trao-tang-ban-Nghi-quyet-UNESCO-ton-vinh-Chu-tich-Ho-Chi-Minh/201010/37063.vgp|tiêu đề=(Nguồn báo điện tử Chính phủ Việt Nam: Trao tặng bản Nghị quyết UNESCO])}}</ref>
 
====Các bình chọn của Tuần báo Time====
[[Time (tạp chí)|Tuần báo TIME]] của [[Hoa Kỳ]] bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong [[thế kỷ XX]]. Danh sách này đã gây ra nhiều tranh cãi, vì tiêu chí của Time chỉ dựa trên tầm ảnh hưởng, bất kể tốt hay xấu ([[Adolf Hitler]] và [[Benito Mussolini]] cũng có tên trong danh sách này).<ref name="time100">{{Chú thích web |url=http://www.time.com/time/time100/leaders/profile/hochiminh.html |tiêu đề=TIME 100: Ho Chi Minh |nhà xuất bản=Tuần báo Time |ngày tháng=13 tháng 4 năm 1998 |tác giả=Stanley Karnow |ngày truy cập = ngày 13 tháng 1 năm 2007}}</ref> Tờ ''Time'' 2000 đã nhận định đóông là người đã góp phần "làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ XX".<ref>
{{chú thích báo
|tác giả= [[Dương Trung Quốc]]
Dòng 623:
 
==Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh ở Việt Nam ngày nay==
Tại [[Việt Nam]], hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một tấm gương sáng về đạo đức,<ref>[http://www.haugiang.gov.vn/Portal/DATA/sites/10/chuyende/HOCTAPGUONGDAODUCHOCHIMINH/index.htm Chỉ thị Số: 06-CT/TW VỀ TỔ CHỨC CUỘC VẬN ĐỘNG "HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH", BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN Việt Nam]</ref> một nhân cách cao thượng và được coi là một hình mẫu cần học tập.<ref>Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4(335) năm 2004, trang 68, Lâm Xuân Đinh.</ref> Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của nhân vậtông. Các cấp ủy [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] thường xuyên [[tuyên truyền]], vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh.<ref>[http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/ListObjectNews.aspx?co_id=10165#W7tudWuzy6pb Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - ''Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam'']</ref> Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi ''Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'' cho nội bộ lẫn quần chúng.
 
Ngoài những phát biểu của chính Hồ Chí Minh và hình vẽ, hình chụp của nhân vật lịch sửông, có nhiều câu nói và khẩu hiệu tuyên truyền lấy cảm hứng từ Hồ Chí Minh, có thể đọc thấy ở mọi nơi, đó là:
* ''Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại!''
* ''Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.''
Dòng 666:
''Không có gì quý hơn độc lập, tự do!''}}
{{Pull quote |
''Kính Chúa phải gắn liền với yêu nướcn­ước, phụng sự [[Thiên Chúa|Thiên chúa]] và phụng sự Tổ quốc, nướcnư­ớc có vinh thì đạo mới sáng, nướcnư­ớc có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự do.''<ref>[http://www.bqllang.gov.vn/danh-sach-khach-vieng.html?id=2917:ho-chi-minh-ve-cong-tac-van-dong-dong-bao-co-dao-tham-gia-cach-mang Hồ Chí Minh về công tác vận động đồng bào có đạo tham gia cách mạng - Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh<!-- Bot generated title -->]</ref>}}
 
===Các câu nói khác===
====Trước 1945====
*Theo tác phẩm ''"Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch"'' của tác giả [[Trần Dân Tiên]], trước khi Nguyễn Tất Thành rời [[Bến Nhà Rồng]] đến [[Pháp]] năm [[1911]], cậu rủ một người bạn (tên là Lê) đi cùng để có gì giúp đỡ lẫn nhau. NgườiAnh bạn hỏi cậu lấy tiền đâu mà ra đi, cậu giơ tay ra mà nói: <nowiki>''</nowiki>''Đây tiền đây! Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi<nowiki>''</nowiki>.''<ref>''Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'', trang 15, Trần Dân Tiên, [[Nhà xuất bản Trẻ|Nhà Xuất bản Trẻ]], 2011.</ref>
* Về mục đích đi ra nước ngoài của mình, năm [[1923]] Nguyễn Ái Quốc đã trả lời rằng: ''"Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ [[Pháp]] Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy"''.<ref>''Báo Ogoniok'', số 39, ngày 23-12-1923.</ref> Một lần khác anh nói: ''"Nhân dân [[Việt Nam]] trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của [[Pháp]]. Người này nghĩ là [[Anh]], có người lại cho là [[Mỹ]]. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi".''<ref>[[Nhân Dân (báo)|Báo Nhân dân]], ngày 18-5-1965.</ref>
*Khi lần đầu đến thăm [[tượng Nữ thần Tự do]] năm [[1913]], Nguyễn Tất Thành là nhìn xuống chân tượng và ghi vào sổ: ''"Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?"'' <ref>[http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=4710&print=true Sự vĩ đại chỉ trường tồn khi lòng dạ trong sáng, Tạp chí xây dựng Đảng, Trần Đình Huỳnh]</ref>
Dòng 718:
{{chính|Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)}}
{{xem thêm|Thơ chúc Tết mừng Xuân của Hồ Chí Minh}}
* ''[[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]]''. Trong các tác phẩm của ông, có thể nói bản [[Tuyên ngôn độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)|Tuyên ngôn Độc lập]] do ông biên soạn là có tiếng vang nhất và được sánh vai cùng các bản [[Tuyên ngôn độc lập|Tuyên ngôn Độc lập]] trong lịch sử [[Việt Nam]] như Bài thơ Thần [[Nam quốc sơn hà|Nam quốc Sơn hà]] (tương truyền của [[Lý Thường Kiệt]]) và [[Bình Ngô đại cáo]] (của [[Nguyễn Trãi]]).
* ''[[Bản án chế độ thực dân Pháp]]'' ([[1925]]).
* ''[[Đường kách mệnh]]'' ([[1927]]).
Dòng 733:
{{chính|Bút hiệu của Hồ Chí Minh}}
<!--{{Expert}} start--><!-- Expert end-->
Sau nhiều năm hoạt động trong nước và ngoài nước, Hồ Chí Minh đã dùng rất nhiều bí danh và tên gọi khác nhau để đánh lạc hướng kẻ thù. Tuy nhiên, danh xưng Hồ Chí Minh được chọn là tên gọi chính thức của ông và được nhiều người chấp nhận nhất. Theo một số tài liệu thì một ngườiông bắt đầu sử dụng danh xưng '''Hồ Chí Minh''' từ năm [[1940]] nhưng không ai biết cho đến khi bị chính quyền [[Trung Quốc]] bắt do nghi ngờ là gián điệp vào năm [[1942]]. Từ đó người nàyông bắt đầu công khai và dùng tên gọi Hồ Chí Minh với mọi người. Và từ đó trở đi danh xưng '''Hồ Chí Minh''' đã trở thành tên gọi chính thức của ông.<ref>{{Chú thích web|url=http://thuvienkiengiang.vn/sach-moi/899-tim-hieu-ve-chu-tich-ho-chi-minh-nhung-ten-goi-bi-danh-but-danh-cua-chu-tich-ho-chi-minh.html|tiêu đề=Tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những Tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh|ngày truy cập = ngày 25 tháng 12 năm 2011 |url lưu trữ=https://archive.is/CefRy|ngày lưu trữ = ngày 7 tháng 7 năm 2013}}</ref>
 
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh (dùng từ [[1942]]) và tên tự Nguyễn Tất Thành (阮必成), trong cuộc đời mình, ông còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như ''Văn Ba'' (khi làm phụ bếp trên tàu biển, [[1911]]); ''Paul Tất Thành'' ([[1912]]); ''Nguyễn Ái Quốc'' (阮愛國, từ [[1919]]); ''Lý Thụy'' (李瑞, khi ở [[Quảng Châu]], [[1924]]–), ''Vương'' (Wang) ([[1925]]–[[1927|27]], [[1940]]), ''Tống Văn Sơ'' ([[1931]]–[[1933|33]]), ''Hồ Quang'' ([[1938]]–[[1940|40]]), ''Trần'' ([[1940]]) (khi ở [[Trung Quốc]]); ''Chín'' (khi ở [[Xiêm La]], [[1928]]–[[1930|30]]) và được gọi là Thầu (ông cụ) Chín; ''Lin'' (khi ở [[Liên Xô]], [[1934]]–[[1938|38]]); ''Chen Vang'' (trong giấy tờ đi đường từ [[Pháp]] sang [[Liên Xô]] năm [[1923]]); ông cũng còn được gọi là ''Bác Hồ'', ''Bok Hồ'', ''Cụ Hồ''. Khi ở [[Việt Bắc]] ông thường dùng bí danh ''Thu'', ''Thu Sơn'' và được người dân địa phương gọi là ''Ông Ké'', ''Già Thu''. Tổng thống Indonesia [[Sukarno]] gọi bằngông từ ''"Bung Hồ"'' (Anh Cả Hồ).
 
NgoàiÔng ra, códùng 173 bút danh khi viết sách, báo:<ref>[http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/Ky-2-Ban-thao-cua-Bac-Ho-duoc-de-cu-la-Di-san-tu-lieu-the-gioi-n20090410085752438.htm Bản thảo của Bác Hồ được đề cử là Di sản tư liệu thế giới], Phí Thị Mùi ([[Bảo tàng Hồ Chí Minh]]), Báo Thể thao và Văn hóa, 11/4/2009.</ref> Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn, Nguyễn A.Q, Ng A.Q, Ng. Ái Quốc, N.A.Q, N., Wang, N.K., A.N; P.C. Lin, P.C. Line ([[1938]], [[Trung Quốc]]), Line ([[1938]], [[Trung Quốc]]), Q.T, Q.TH, Lê Quyết Thắng ([[1948]]–[[1950|50]]), A.G, X.Y.Z ([[1947]]–[[1950|50]]), G., Lê Nhân, Lê, Lê Ba, Lê Nông, Lê Thanh Long, L.T., T.L. ([[1955]]–[[1969|69]]), T.Lan ([[1955]]–[[1969|69]]), Tuyết Lan, Thanh Lan, Đin ([[1950]]–[[1953|53]]), Tân Trào, Đ.X (trong chuyên mục "Thường thức chính trị" trên báo ''Cứu quốc'' năm [[1953]]), C.B (trên báo ''Nhân dân'' [[1951]]–[[1957|57]]), V.K., K.C., C.K., Trần Lực ([[1948]]–[[1961|61]]), C.S, Chiến Sĩ, Chiến Đấu, La Lập, Nói Thật, Thu Giang, K.V., Trầm Lam, Luật sư TH. Lam, Nguyễn Kim, K.O, Việt Hồng...
 
==Giai thoại==
Dòng 762:
Đất [[Nam Đàn]] sẽ sinh ra bậc thánh nhân).</blockquote>Sau phong trào&nbsp;[[Xô viết Nghệ Tĩnh]], câu sấm này được nhắc lại và bàn tán. Lúc đó, [[Thiên Nhẫn|khe Bò Đái]]&nbsp;cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa. Vào thời [[Tự Đức]] ([[1848]]–[[1883]]), nước lũ [[sông Lam]] đã cuốn mất làng [[Triều Khẩu]] thuộc huyện [[Hưng Nguyên]] và nước [[sông Lam]] đã chảy đến chân núi [[Lam Thành]], còn hai đảo Song Ngư ([[Hòn Ngư]]) ở ([[Cửa Lò]]) là [[hòn Son]] và [[hòn Mực]] ở ngoài&nbsp;cửa Hội nối liền nhau bởi nước biển đã cạn, do đó người dân càng tin vào lời sấm và chờ đợi thánh nhân xuất hiện.
 
Trong một cuộc gặp giữa [[Phan Bội Châu]] (lúc này đã bị [[Pháp]] bắt và quản thúc) với&nbsp;[[Đào Duy Anh]]&nbsp;và nhà nho&nbsp;[[Trần Lê Hữu]], ông Hữu có hỏi:&nbsp;''"Thưa cụ Phan, "Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh" chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!"'' Phan Bội Châu đáp:&nbsp;''"Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông&nbsp;Nguyễn Ái Quốc&nbsp;chứ chẳng phải ai khác".''<ref>{{Chú thích web|url = https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_B%E1%BB%99i_Ch%C3%A2u#Phan_B.E1.BB.99i_Ch.C3.A2u_v.C3.A0_Nguy.E1.BB.85n_.C3.81i_Qu.E1.BB.91c|tiêu đề = Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc}}</ref>
 
Trong cao trào của [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng Tháng 8 năm 1945]], đại thần [[Phạm Khắc Hòe]] không ngừng nhắc lại cho [[Bảo Đại]] câu sấm truyền: ''"Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh"''. Vị thánh đó có thể là nhà chí sĩ [[Phan Bội Châu]], nhưng Phan Bội Châu đã không thành công và đã mất năm [[1940]]. Từ những năm [[1930]], người ta lại giải thích vị thánh cứu nước chỉ có thể là Nguyễn Ái Quốc, cùng quê ở Nam Đàn ([[Nghệ An]]). Chính câu sấm truyền ấy cùng với dư luận đồn đại, theo ông Hòe kể lại sau này, đã khiến [[Bảo Đại]] đi đến quyết định cuối cùng. Ngày [[20 tháng 8]], Bảo Đại cho biết ông sẵn sàng thoái vị ngay, nếu người đứng đầu [[Việt Minh]] là Nguyễn Ái Quốc (khi đó Bảo Đại chưa biết Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh<ref>''Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam'', Daniel Grandcléme, Nhà Xuất bản Phụ nữ, trang 205.</ref>).
 
==Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật==
Dòng 848:
 
==Đánh giá==
[[Giáo sư]] David Thomas cho biết ông đã từng đọc tạp chí tin tức và [[Tin tức|thời sự]] có tiếng tăm tại [[Hoa Kỳ]] có ghi nhận về một cuộc thăm dò ý kiến người dân [[Mỹ]]. Người ta tham khảo ý kiến về các lãnh tụ trên toàn cầu, xem ai là người Thiện (''good''), ai là người Ác (''evil''). Kết quả cho thấy Hồ Chí Minh, cùng với các lãnh đạo [[Adolf Hitler]] và [[Iosif Vissarionovich Stalin|Iosif Stalin]] bị xem là những nhân vật Ác, trong khi [[Nelson Mandela]], [[Franklin D. Roosevelt]] và [[Mahatma Gandhi]] thì được xem là những nhân vật Thiện. Giáo sư David Thomas không tán thành với quan điểm này vì theo ông ''"ai từng nghiên cứu một cách khách quan cuộc đời và những thành tựu của Hồ Chí Minh thì không thể nào đi đến kết luận như vậy được"''.<ref name="david"/><!--Cũng có nhiều tạp chí tài liệu nổi tiếng khác đã công bố các đánh giá ngược lại.{{cần chú thích|date = ngày 4 tháng 8 năm 2015}}--> <!-- Tạp chí Time tháng 11 năm 2010 đã chọn ông là một trong 10 nhân vật đấu tranh cho tự do nổi tiếng nhất mọi thời đại, trong đó có [[Aung San Suu Kyi]], [[Nelson Mandela]], [[Mahatma Gandhi|Mohandas Gandhi]], [[Martin Luther King|Martin Luther King Jr]]...{{cần chú thích|date = ngày 4 tháng 8 năm 2015}} không có nguồn tạm che, để fact quá lâu-->
 
Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của [[Việt Nam]] giành độc lập khỏi chế độ [[thực dân Pháp]], Hồ Chí Minhông lại không phải là một nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Điều này thể hiện qua nhận định tích cực về ông của nhiều người ngoại quốc.<ref name="mqt"/> Trong hội thảo quốc tế "Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay", Ahn Kyong Hwan, một giáo sư của [[Trường Đại học Chosun]] ([[Hàn Quốc]]), nói: ''"Hồ Chí Minh có thể khác về mặt tư tưởng hay tôn giáo so với các vĩ nhân khác trên thế giới nhưng nhân cách của Người thì đáng để mọi người trên thế giới tôn kính… Những nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới phải noi gương tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào vĩ đại của Người"''. Nhà báo Úc [[Wilfred Graham Burchett|Wilfred Burchett]], người từng có nhiều cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh, cho biết: ''"Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp gỡ tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc"''.<ref>[http://www.sggp.org.vn/chinhtri/ngaynaynamay/2009/3/184900/ SGGP Online, Hồ Chí Minh - Ngày này năm ấy - Ngày 22 tháng 3: Điện Biên Phủ - "Stalingrad ở Đông Dương"], 22/03/2009, D.T.Q và nhóm cộng sự.</ref>
 
Thượng tọa [[Thích Huệ Đăng (sinh 1940)|Thích Huệ Đăng]], nhà tu hành rất nổi tiếng ở [[Việt Nam]], có những tham luận về tư tưởng [[Phật giáo]] của Hồ Chí Minh, [[Trần Nhân Tông]] và của [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Phật Thích Ca Mâu Ni]]. Thượng tọa cho rằng, giữa 3 người này có một nét chung đó là tìm đường cứu dân, cứu nước bằng chân lý Phật pháp. Đó là:
Dòng 857:
* Tư tưởng sống thanh bạch, giản dị, tránh xa hoa lãng phí;
* Tư tưởng chống chủ nghĩa cá nhân, chống thói hư tật xấu tha hóa về đạo đức;
[[Nhân Dân (báo)|Báo Nhân dân]] coi Chủ tịch Hồ Chí Minhông như một vị [[Bồ Tát|Bồ tát]], một vị [[A-la-hán|La hán]], còn Thượng tọa [[Thích Huệ Đăng (sinh 1940)|Thích Huệ Đăng]] thì gọi "Người"ông là đại bồ tát: ''"Người là một vị Đại Bồ tát tái sinh, đã nhập thế, từ bỏ mọi vinh hoa phú quý, từ bỏ cuộc sống đang yên bình để dấn thân vào con đường mịt mù chông gai, gian khổ, từ đó tìm ra con đường giành độc lập cho dân tộc. Điều này giống Phật [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Thích Ca Mâu Ni]] từ bỏ cung vàng điện ngọc, ngai vàng, vợ đẹp con ngoan, đi tu hành tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh".''<ref>[http://petrotimes.vn/dai-bo-tat-ho-chi-minh-374196.html Đại Bồ Tát Hồ Chí Minh], petrotimes, 8.2.2016.</ref>
 
==Xem thêm==