Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sumer”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 278:
Trong gia đình, người cha là người nắm quyền; tuy nhiên, một người phụ nữ đã kết hôn vẫn có thể đứng ra thực hiên giao dịch một mình hoặc cùng với chồng. Phụ nữ có thể ra tòa, làm chứng trước tòa, có tài sản riêng.<ref>{{Harvard citation no brackets|Wilcke|2003}}.</ref><ref>{{Harvard citation no brackets|Lafont|Westbrook|2003}}.</ref> Phụ nữ góa chồng thậm chí trở thành chủ hộ gia đình nếu con của họ còn nhỏ; nhưng trừ khi họ ở trong một gia đình giàu có và tự chủ về kinh tế, những người phụ nữ này có hoàn cảnh bấp bênh và phải phụ thuộc vào một tổ chức để có tiền nuôi sống bản thân. Không phải tất cả phụ nữ đều kết hôn hoặc góa chồng: như trường hợp của gái mại dâm, nhưng dường như cũng có những phụ nữ sống độc lập khác và phải tự chu cấp cho bản thân. Không nên cho rằng phụ nữ Sumer bị giới hạn trong phạm vi nội trợ, ngay cả khi đó vẫn là công việc chính của họ, vì họ vẫn thường được ghi lại là làm việc bên ngoài khuôn khổ gia đình, đặc biệt là trong các tổ chức.<ref>{{Chú thích web|url=http://refema.hypotheses.org/389|tựa đề=Women economic activities at home and outside home during the {{nobr rom|Ur III}} period|tác giả=B. Lafont|ngày=16 avril 2013|website=REFEMA|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=13 octobre 2013}}.</ref>
 
Nhìn chung trong lịch sử Lưỡng Hà, phụ nữ có vị trí thấp hơn so với nam giới, nhưng địa vị của phụ nữ tính trong xã hội Sumer vẫn được cho là tích cực hơn so với hậu duệ của họ trong các thời kỳ sau này từ đầu thiên niên kỷ thứ hai TCN trở đi. Tuy nhiên điều này vẫn còn gây nhiều tranh cãi.<ref>{{Chú thích sách|url=|title=Cuneiform Texts and the Writing of History|last=M. Van De Mieroop|publisher=|year=1999|isbn=|series=|volume=|location=Londres et New York|page=141-142, 153-158|pages=|language=en}}.</ref> K. Wright cho rằng địa vị của phụ nữ bị kéo thấp xuống từ thiên niên kỷ thứ tư TCN, do hệ quả của việc xuất hiện nhà nước và đô thị.<ref>{{En icon}} K. I. Wright, « Women and the Emergence of Urban Society in Mesopotamia », dans S. Hamilton, R. Whitehouse et K. I. Wright (dir.), ''Archaeology and Women: Ancient and Modern Issues'', Walnut Creek, 2007, p. 199-245</ref>
 
=== Trẻ em ===
Dòng 290:
=== Đời sống ===
[[Tập tin:Ur_1_old_street.png|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Ur_1_old_street.png|thế=Plan d'une vaste maison.|trái|nhỏ|Một kiểu nhà ở Sumer tại khu phố cổ [[Ur (thành phố)|Ur]], của thương gia Ea-Nasir vào đầu thế kỷ 18 TCN: Các gian phòng có thể là 1. tiền đình; 2. không gian trung tâm; 3. hành lang của cầu thang dẫn lên tầng một; 4. khu vực dùng nước; 5. khách sảnh; 6. nhà nguyện. ]]
Cuộc sống hàng ngày của các gia đình Sumer có thể được tiếp cận bằng cách nghiên cứu phầntàn còntích lạinhà của những ngôi nhàcửa tại một số dikhu tíchkhai quật, chủ yếu ở khu vực thành thị, cũng là- nơi sinh sống của phần lớn người Sumer. Mô hình nhà ở phổ biến nhất là kiểu nhà có khôngchính gian trung tâmphòng hình tứ giác với các phòng chức năng khác quây xung quanh. Mô hình cơ bản này có hình dạng và kích thước đa dạng, bên cạnh đó cũng có một số loại nhà khác không có khôngchính gian trung tâm như vậyphòng.<ref name="maisons3">{{Harvard citation no brackets|Huot|2004}} ; {{Harvard citation no brackets|Crawford|2004}} ; {{En icon}} P. Collins, « {{Lang|en|Archaeology of the Sumerian home: Reconstructing Sumerian daily life}} », dans {{Harvard citation no brackets|Crawford (dir.)|2013}}.</ref>
 
Chức năng của các phòng không phải lúc nào cũng được phân định rõ ràng. Những ngôi nhà nhỏ nhất chỉ có một vài phòng thì không có bất kỳ sự phân biệt trong công dụng của mỗi phòng. Với các ngôi nhà lớn hơn thì có thể nhận radiện được kho chứa đồ, phòng khách, phòng ngủ hay đôi khi là phòng tắm. KhôngChính gian trung tâmphòng được sử dụng cho các hoạt động chính của gia đình. Một số ngôi nhà có thể có tầng lầu. Mái nhà có lẽkhả bằngnăng phẳng,là mái bằng trát đất sét hoặc phủ phên sậy. CũngNhà những không giancũng có thể có các khu vực mang chức năng tôn giáo như một nhà nguyện nhỏ để thực hiện các nghi lễ trong gia đình. Một số ngôi nhà có hầm mộ chứa thi thể của các thành viên gia đình quá cố, nhằm duy trì sự gần gũi giữa người chết và hậu duệ đang sống của họ.<ref name="maisons4">{{Harvard citation no brackets|Huot|2004}} ; {{Harvard citation no brackets|Crawford|2004}} ; {{En icon}} P. Collins, « {{Lang|en|Archaeology of the Sumerian home: Reconstructing Sumerian daily life}} », dans {{Harvard citation no brackets|Crawford (dir.)|2013}}.</ref>
 
Về đồ nội thất, các cuộc khai quật thường tìm thấy các loại bếp được sử dụng để nấu nướng, có lẽ cũng để làm đồ gốm hoặc để sưởi ấm trong mùa lạnh, như lò nướng đơn, lò nướng boong, lò sưởi, bếp lò. Thợ thủ công có thể làm việc trong nhà hoặc ngoài xưởng. Bếp cũng có thể dùng để xác định đặc điểm cư dân của ngôi nhà: nhà giàu có hoặc đông đúc hơn thì sẽ có bếp lớn hơn.<ref name="maisons5">{{Harvard citation no brackets|Huot|2004}} ; {{Harvard citation no brackets|Crawford|2004}} ; {{En icon}} P. Collins, « {{Lang|en|Archaeology of the Sumerian home: Reconstructing Sumerian daily life}} », dans {{Harvard citation no brackets|Crawford (dir.)|2013}}.</ref>
 
== Văn hóa ==
[[Tập tin:Royal_Tombs_of_Ur_Objects_from_tomb_PG_580.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Royal_Tombs_of_Ur_Objects_from_tomb_PG_580.jpg|nhỏ|Dao găm vàng từ một lăng mộ Sumer PG 580,tại Nghĩa trang Hoàng gia tại Ur . ]]
 
=== Ngôn ngữ và chữ viết ===
{{chính|Ngôn ngữ Sumer|Chữ hình nêm}}Ngôn ngữTiếng Sumer nói chung được coi như một ngôn ngữ biệt lập trong [[ngôn ngữ học]] bởi nó không thuộc một ngữ hệ nào từng được biết; tiếng Akkadđến, tráikhác lạivới tiếng Akkad thuộc nhánh Semit của [[ngữ hệ Phi-Á]]. Đã có nhiều nỗ lực bất thành để tìm mối liên kếthệ giữa tiếng Sumer với các [[nhóm ngôn ngữ]] khác.<ref name="SNK" /><ref name=":0" /><ref name=":1" /><ref name=":2" /><ref name=":3" /> Trái ngược với ngôn ngữ Semit lânláng cậngiềng, tiếng Sumer không có [[biến tố]].<ref name="SNK" /> Nó là một ngôn ngữ chấp dính; nói cách khác, các [[hình vị]] ("đơn vị nghĩa") được thêm vào nhau để tạo ra các từ, không giống như các ngôn ngữ phân tích trong đó các hình vị chỉ hoàn toàn được thêmghép vào với nhaulại để tạo ra câu.
 
Trong thiên niên kỷ 3 TCN, đã xuất hiện một sự cộng sinh văn hóa giữa người Sumer và người Akkad đã được phát triển, và việc [[Đa ngôn ngữ|sử dụng song ngôn ngữ]] trở nên phổ biến.<ref name="Deutscher">{{chú thích sách|url=http://books.google.co.uk/books?id=XFwUxmCdG94C|title=Syntactic Change in Akkadian: The Evolution of Sentential Complementation|author=Deutscher, Guy|publisher=[[Oxford University Press|Oxford University Press US]]|year=2007|isbn=978-0-19-953222-3|pages=20–21|authorlink=Guy Deutscher (linguist)}}</ref> Sự ảnh hưởng của tiếng Sumer trênlên tiếng Akkad (và ngược lại) được thể hiện rõ nét trong tất cả các lĩnhkhía vựccạnh, từ việc vay mượn từ vựng ở quy mô lớn, tới cú pháp, hình thái, và hội tụ âm vị.<ref name="Deutscher" /> Điều này đã khiến các học giả coi tiếng Sumer và tiếng Akkad ở thiên niên kỷ 3 TCN như một ''sprachbund'' (liên minh ngôn ngữ).<ref name="Deutscher" />
 
Tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer nhưvới vai ngôntrò ngữtiếng nói phổ thông dụng ở khoảng cuối thiên niên kỷ 3 đầu thiên niên kỷ 2 TCN,<ref name="woods">Woods C. 2006 [http://oi.uchicago.edu/pdf/OIS2.pdf "Bilingualism, Scribal Learning, and the Death of Sumerian"]. In S.L. Sanders (ed) ''Margins of Writing, Origins of Culture'': 91-120 Chicago</ref> nhưng tiếng Sumer vẫn tiếp tục được sử dụng như một ngôn ngữ linh thiêng, sử dụng trong nghi lễ, văn học và khoa học tại [[Babylonia]] và [[Assyria]] cho tới thế kỷ thứ I.<ref>{{chú thích sách|title=A glossary of historical linguistics|last=Campbell|first=Lyle|publisher=Edinburgh University Press|year=2007|isbn=978-0-7486-2379-2|page=196|coauthors=Mauricio J. Mixco}}</ref>[[Tập tin:Early writing tablet recording the allocation of beer.jpg|thumb|Bảng chữ viết thời kỳ đầu ghi lại việc phân phát bia, 3100-3000 trước Công nguyêm]]
Những khám phá khảo cổ học quan trọng nhất tại Sumer là một số lượng lớn các [[bảng đất sét]] với cáckhắc [[chữ hình nêm]]. Chữ viết của Sumer là hệ thống chữ viết cổ nhất từng được phát hiện trên thế giới. Đây được xem như một bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển của nhân loại, bằngvới việc ghi chép lại lịch sử và sáng tạo ra các tác phẩm văn học cũng như luật lệ và tôn giáo. Ban đầu nhữngngười bứcSumer tranhsử dụng các hình vẽ – tương đương với [[chữ tượng hình]] – được sử dụng, sau đó đã phát triển nhanh chóng thành dạng chữ hình nêm và chữ kí hiệu. CácHọ dùng các que sậy có đầu hình [[tam giác]] hay hình nêm nhọn được dùng để khắc trên những tấm bảngphiến đất sét ẩm. Hàng trăm nghìn văn bản tiếng Sumer vẫn còn tồn tại, như thư tín cá nhân hay thương mại, hóa đơn, bảng từ vựng, luật pháp, thánh ca, lời cầu nguyện, các câu chuyện, những ghi chép hàng ngày. Một thư viện lớn lưu trữ các [[bảng đất sét]] đã được tìm thấy. Những ghi chép tại các đền đài và nhữngchữ văn bảnkhắc trên các vật thể khác nhau như những bức tượng hay các viên gạch cũng rất phổ biến. Nhiều văn bản vẫn còn nhiều bản sao tồn tại bởi chúng được sao chép liên tục bởi các kinh sư trong quá trình họ học nghề. Tiếng Sumer tiếp tục là ngôn ngữ của tôn giáo và pháp luật ở Lưỡng Hà một thời gian dài kể cả sau khi nhữngkhu ngườivực nóibị tiếngthống Semittrị đãbởi các vịdân thếtộc thống trịSemit.
 
Một ví dụ tiêu biểu cho chữ viết hình nêm được sử dụng trong văn chương là ''[[Sử thi Gilgamesh|các bài thơ về Bilgamesh]]'' được viết bằng chữ hình nêm Sumer chuẩn. Các câu, chuyện kể về một vị vua từ thời đầukỳ Triềutriều đại II là [[Gilgamesh]] (hay "Bilgamesh" trong tiếng Sumer) và các cuộc phiêu lưu của ông cùng với người bạn thân là [[Enkidu]]. Đây được xem như một trong ví dụ cổ nhất về mộtnhững tác phẩm văn học viết hư cấu viếtcổ nhất được tìm thấy cho đến thời điểm hiện tại.
 
=== Nghệ thuật ===
Người Sumer là những người sáng tạo tuyệt vời, thể hiện qua nghệ thuật của họ. Các đồ tạo tác của người Sumer thể hiện rất nhiều chi tiết và hoa văn, với những loại đá bán quý được nhập khẩu từ các vùng đất khác, chẳng hạn như [[Ngọc lưu ly|lưu ly]], [[Đá hoa|đá cẩm thạch]], và [[Diorit|diorite]], và các kim loại quý như vàng cán. Vì đá rất hiếm nên nó được dành để điêu khắc. Vật liệu phổ biến nhất ở Sumer là đất sét nên nhiều đồ vật được làm từ đất sét. Các kim loại như vàng, bạc, đồng đỏ và đồng, cùng với vỏ sò và đá quý, được sử dụng để điêu khắc và chạm khảm. Những viên đá nhỏ bao gồm nhiều loại đá quý hơn như lưu ly, đá thạch cao và [[Serpentin|serpentine]] được sử dụng chođể làm con dấu hình trụ.
 
Một số tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất là ''Đàn lia của Ur'', được coi là loại [[Bộ dây|nhạc cụ có dây]] còn tồn tại lâu đời thứ hai trên thế giới được tìm thấy. Chúng được Leonard Woolley phát hiện khi khai quật Lăng mộ Hoàng gia Ur từ năm 1922 đến 1934. <gallery widths="150" heights="150">
Tập tin:Cylinder seal and modern impression- ritual scene before a temple facade MET DP270679.jpg|Con dấu hình trụ và bản ấn, hình mặt tiền đền thờ; 3500–3100 TCN; làm từ đá vôi bitum; cao 4,5 cm; [[Metropolitan Museum of Art|Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan]] (New York)
Tập tin:Raminathicket2.jpg|''Ram trong bụi cây'', 2600–2400 TCN; vàng, đồng, vỏ sò và đá thạch cao; cao 45,7 cm; từ Lăng mộ Hoàng gia Ur (Vùng tổng trấn Dhi Qar, Iraq); [[British Museum|Bảo tàng Anh]]
Dòng 320:
 
=== Kiến trúc Sumer ===
[[Tập tin:Ancient_ziggurat_at_Ali_Air_Base_Iraq_2005.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Ancient_ziggurat_at_Ali_Air_Base_Iraq_2005.jpg|nhỏ|300x300px|''Đại Ziggurat của Ur'' (Vùng tổngủy trấntrị Dhi Qar, Iraq), được xây dựng thời Ur III, thờ thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Nanna]]]]
Đồng bằng Tigris-Euphrates không có khoáng vật và cây gỗ. Các công trình xây dựng Sumer được làm bằng [[gạch bùn]] phẳng-lồi, không trộn với [[vữa]] hay [[xi măng]]. Những công trình bằng gạch bùn sau cùng sẽ xuống cấp, vì thế theo định kì chúng bị phá hủy, đắp cao lên và xây lại trên cùng địa điểm. Công việc xây dựng liên tục này dần khiến nền của các thành phố cao lên, và trở nên cao hơn vùng đồng bằng xung quanh. Kết quả là những ngọn đồi, được gọi là các ''tell'', xuất hiện trên khắp Cận Đông cổ đại.
 
Theo [[Archibald Sayce]], những văn bản [[chữ tượng hình]] nguyên thủy của người Sumer thời kỳ đầu (ví dụ như Uruk) cho thấy rằng "Đá rất hiếhiếm nên chúng được dùng cho điêu khắc và làm con dấu. Gạch là vật liệu xây dựng thông thường của các thành phố, pháo đài, đền và nhà cửa. Thành phố có các ngọn tháp và được xây trên những nền đắp cao; nhà cửa cũng có dạng hình tháp. Cửa nhà có bản lề, và có thể đóng mở bằng một loại khóa; cổng thành phố lớn hơn và có vẻ như như được làm hai lớp. Các viên đá hay gạch móng nhà được làm phép bằng một số vật thể chôn bên dưới."<ref name="Sayce">{{chú thích sách| authorlink=Archibald Sayce| last=Sayce | first=Rev. A. H.| url=http://www.archive.org/stream/archaeologyofcun00sayc/archaeologyofcun00sayc_djvu.txt |title= The Archaeology of the Cuneiform Inscriptions|edition=2nd revised | year=1908 | publisher=Society for Promoting Christian Knowledge | location=London, Brighton, New York |pages=98–100}}</ref>
 
Các công trình ấn tượng và nổi tiếng nhất của Sumer là các [[ziggurat]], cấu trúc nhiềubậc lớpthang nềnvới nângđền đỡthờ các ngôitrên đềnđỉnh. Những con dấu hình trụ của Sumer cũng thể hiện những ngôi nhà dựng từ lau sậy, nhưng không giống như kiểu nhà sậy của người Ả Rập đầm lầy ở phía nam Iraq những năm 400. Người Sumer cũng đã biết làm nhịp vòm, khiếntrong họcác có thể dựng dượcngôi nhà mái vòm kiên cố. Họ xây nó bằng cách dựng và nối các vòm cuốn. Các ngôi đền và cung điện Sumer sử dụng các kỹ thuật và vật liệu tiên tiến hơn, như trụ ốp tường, hốc tường, [[cột|bán cột]], và đinh đất sét.
===Quân sự===
[[Tập tin:Standard of Ur chariots.jpg|frame|Những chiếc xe ngựa thời kỳ đầu khảm trên ''Thang đo Ur'', khoảng 2600 TCN]]
[[Tập tin:Stele of Vultures detail 01-transparent.png|right|thumb|Các đội hình chiến trận trên một mảnh bia kền kền]]
 
Những cuộc chiến tranh hầu như liên tục giữa các thành bang Sumer trong suốt 2000 năm đã giúp phát triển các kỹ thuật và công nghệ chiến tranh của Sumer đạt tới một mứctrình độ tương đối cao.<ref>Roux, Georges (1992), "Ancient Iraq" (Penguin)</ref> Cuộc chiến đầu tiên được ghi chép đầy đủ là cuộc chiến giữa Lagash và Umma vào khoảng năm 2525 TCN trên một chiếc bia được gọi là bia kền kền. Nó thể hiện vị vua của Lagash chỉ huy một đội quân Sumer gồm chủ yếu là [[bộ binh]]. Những lính bộ binh mang [[giáo]], đội mũ trụ [[đồng]] và mang các tấm [[khiên]] bằng [[da]] hình chữ nhật. Những người cầm giáo được thể hiện trong đội hình giống với [[đội hình phalanx]], vốn đòi hỏi việc huấn luyện và kỷ luật; điều này cho thấy rằng người Sumer có thể đã sử dụng các chiến binh chuyên nghiệp.<ref>Winter, Irene J. (1985). "After the Battle is Over: The 'Stele of the Vultures' and the Beginning of Historical Narrative in the Art of the Ancient Near East". In Kessler, Herbert L.; Simpson, Marianna Shreve. Pictorial Narrative in Antiquity and the Middle Ages. Center for Advanced Study in the Visual Arts, Symposium Series IV 16. Washington, DC: National Gallery of Art. pp. 11–32. {{ISSN|0091-7338}}</ref>
 
Các thành phố Sumer được bao quanh bởi tường thành bởi gạch bùn để phòng thủ trước sự tấn công của kẻ thù và các cuộc [[bao vây|vây thành]].
Quân đội Sumer sử dụng xe kéo bằng [[Lừa hoang Trung Á|lừa]]. Những chiếc xe chiến thời kỳ đầu này hoạt động kém hiệu quả trong chiến trận hơn so với những bản thiết kế sau này và một số người đã cho rằng chúng chủ yếu chỉ được dùng như phương tiện vận tải, dù những người trên xe có được trang bị rìu chiến và [[thương]]. Cỗ xe của người Sumer bao gồm một đầu xe có hai hay bốn bánh được thắng vào bốn con lừa. Cỗ xe có một giỏ đan và bánh xe ba nan chắc chắn.
 
Các thành phố Sumer được bao quanh bởi tường thành. Chiến tranh của người Sumer thường có chiến lược [[bao vây|vây thành]], nhưng những bức tường thành làm bằng [[gạch bùn]] cũng có thể ngăn chặn một số kẻ thù
 
=== Toán học ===
Người Sumer đã phát triển một hệ thống [[đo lường]] phức tạp vào khoảng năm 4000 TCN. Hệ thống đo lường tiên tiến này dẫn tới sự ra đời của số học, hình học, và đại số. Từ khoảng năm 2600 TCN trở về sau, người Sumer đã viết nhiều bảng tính nhân trên tấm đất sét và đã biết giải các bài [[hình học]] và bài tính chia. Những dấu vết sớm nhất của chữ số Babylon cũng có từ giai đoạn này.<ref>Duncan J. Melville (2003). [http://it.stlawu.edu/~dmelvill/mesomath/3Mill/chronology.html Third Millennium Chronology], ''Third Millennium Mathematics''. [[St. Lawrence University]].</ref> Giai đoạn khoảngKhoảng năm 2700–2300 TCN chứng kiến sự xuất hiện lần đầu của [[bảng tính]], và một bảng gồm các cột liên tục phân định các trật tự liên tục của độ lớn của hệ thống số [[Hệ lục thập phân|lục thập phân]].<ref>{{Harvcolnb|Ifrah|2001|p=11}}</ref> Người Sumer là những người đầu tiên sử dụng một hệ thống số giá trị vị trí. Cũng có bằng chứng từ các giaihuyền thoại cho rằng người Sumer có thể đã sử dụng một kiểu thước trượttrắc trongtinh việcđể tính toán thiên văn học. Họ là những người đầu tiên tính rađược diện tích của một hình [[tam giác]] và thể tích của một khối trụ.<ref>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=BKRE5AjRM3AC&printsec=frontcover&dq=sherlock+holmes+in+babylon&sig=ACfU3U2XZtiWSoTgchQhcKHQD95X3F-35Q#PPA7,M1|title=Sherlock Holmes in Babylon: and other tales of mathematical history|last1=Anderson|first1=Marlow|last2=Wilson|first2=Robin J.|date=ngày 14 tháng 10 năm 2004|publisher=Google Books|accessdate=ngày 29 tháng 3 năm 2012}}</ref>
===Công nghệ===
[[Tập tin:Trò chơi của người Sumer.JPG|nhỏ|200x200px|Một trò chơi bàn cờ của người Sumer]]Những ví dụ về công nghệ của người Sumer bao gồm: [[bánh xe]], [[chữ hình nêm]], [[số học]] và [[hình học]], các hệ thống [[thủy lợi]], những con tàuthuyền Sumer, [[lịch mặt trăng]], [[Lịch Mặt Trời|lịch mặt trời]], [[đồng]], [[da]], [[cưa]], đục, [[búa]], nẹp, hàm thiếc, [[đinh]], ghim, [[nhẫn]], [[cuốc]], [[rìu]], [[dao]], mũi [[giáo]], [[tên (vũ khí)|đầu mũi tên]], [[kiếm]], [[keo]], [[dao găm]], túi da đựng nước, túi xách, dây nịt, [[Giáp|áo giáp]], ống tên, [[Xe ngựa chiến|xe ngựa chiến tranh]], bao kiếm, [[ủng]], [[Sandal|dép]], [[Súng phóng lao|harpons]] và [[Bia (thức uống)|bia]].
 
== Di sản ==
Bằng chứng về các phương tiện có [[bánh xe]] đã xuất hiện từ giữa thiên niên kỷ thứ 4 TCN, gần đồng thời tại Lưỡng Hà, Bắc Kavkaz ([[văn hóa Maikop]]) và Trung Âu. BánhÝ tưởng bánh xe bắtkhởi đầunguồn ở dạngtừ bàn xoay đồ gốm. Ý tưởng này nhanh chóng được áp dụng vào các phương tiện di chuyển và cối xay. Sau [[chữ tượng hình Ai Cập]], hệ thống [[chữ hình nêm]] của Sumer là hệ thống cổ thứ hai đã được giải mã (tình trạng của những hệ thống chữ viết còn cổ hơn như các biểu tượng Jiahu và các phiến đá Tartaria đang còn gây tranh cãi). Người Sumer là một trong số những nhà thiên văn học đầu tiên, đã biết vẽ bản đồ sao và nhóm vàothành các chòm sao, nhiều chòm sao vẫn còn tồn tại trong [[hoàng đạo]] ngày nay và được người Hy Lạp cổ đại công nhận.<ref name="Thompson">{{chú thích web|author=Gary Thompson |url=http://members.optusnet.com.au/~gtosiris/page11-4.html |title=History of Constellation and Star Names |publisher=Members.optusnet.com.au |accessdate= ngày 29 tháng 3 năm 2012}}{{Verify credibility|failed=y|date=March 2012}}</ref> Họ cũng nhận biết được năm hành tinh có thể quan sát thấy bằng mắt thường.<ref name="SumerFAQ2">{{chú thích web|url=http://www.sumerian.org/sumerfaq.htm#s39 |title=Sumerian Questions and Answers |publisher=Sumerian.org |accessdate=ngày 29 tháng 3 năm 2012}}</ref>
 
Người Sumer đã phát minh và phát triển số học bằng cách sử dụng nhiều hệ thống số khác nhau bao gồm một hệ cơ số hỗn hợp với một hệ thập phân thay thế và lục phân. [[Hệ lục phân]] này trở thành hệ thống số tiêu chuẩn tại Sumer và Babylon. Có thể họ đã phát minh ra các đội hình quân sự và đưa ra hệ thống phân chia căn bản giữa [[bộ binh]], [[kỵ binh]], và [[cung thủ]]. Họ là những người đầu tiên được biết tới phát triển các hệ thống hành chính và luật pháp sớm nhất được biết tới, được hoàn thiện bởibằng tòa án, nhà tù và hồ sơ lưu kí của chính quyền. Những thành bang thật sự đầu tiên đã xuấtra hiệnđười ở Sumer, gần như đồng thời với những thực thể tương tự ở những nơi hiện nay là [[Syria]] và [[Liban]]. Nhiều thế kỷ sau khi phát minh chữ hình nêm, việcvào sửkhoảng dụngnăm 2600 TCN, chữ viết đã lần đầu tiên được mởsử rộngdụng ra khỏingoài phạm vi cáchóa chứng nhận nợ/thanh toánđơn các bảng kiểm vào khoảng năm 2600 TCN, để gửi thư từ, ghi chép lịch sử, huyền thoại, toán học, thiên văn học và các mục đích khác. Cùng với sự phổ biến của chữ viết, những trường học chính quy đầu tiên đã được thành lập, thường đượcnằm lập ra bởi ngôi đền chính của thành bang.
 
Cuối cùng, người Sumer đã khởi đầu việc [[thuần hóa]] với [[nông nghiệp]] và [[thủy lợi]] trên quy mô lớn. Lúa mì Emmer, [[lúa mạch]], cừu (khởibắt đầu từ cừu rừnghoang), và gia súc (khởibắt đầu từ [[bò rừng]]) là những loài đầu tiên được nuôi trồng và nuôi trên quy mô lớn.
 
==Xem thêm==