Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Định lý lớn Fermat”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
n sửa lỗi chính tả |
||
Dòng 6:
:''Không tồn tại các nghiệm [[số nguyên|nguyên]] khác không ''x'', ''y'', và ''z'' thoả mãn ''x''<sup>n</sup> + ''y''<sup>n</sup> = ''z''<sup>n</sup> trong đó ''n'' là một số nguyên lớn hơn 2''.
Định lý này đã làm khó không biết bao bộ óc vĩ đại của các [[nhà toán học]] lừng danh trong gần 4 [[thế kỉ]]. Cuối cùng nó được [[Andrew Wiles]] [[chứng minh]] vào năm 1993 sau gần 8 năm ròng nghiên cứu, phát triển từ chứng minh các [[giả thiết]] có liên quan. Tuy nhiên chứng minh này còn thiếu sót và đến năm 1995 Wiles mới hoàn tất, công bố chứng minh trọn vẹn sau 358 năm nỗ lực chứng minh của các nhà toán học. Bằng chứng được mô tả là một 'bước tiến tuyệt vời' trong trích dẫn cho giải thưởng Abel năm 2016. Bằng chứng của Định lý cuối cùng của Fermat cũng đã chứng minh được rất nhiều định lý mô đun và mở ra toàn bộ các phương pháp tiếp cận mới cho nhiều vấn đề khác và kỹ thuật nâng cao tính toán mô đun. Những vấn đề chưa giải quyết đã thúc đẩy sự phát triển của lý thuyết đại số ở thế kỉ 19 và sự chứng minh của định lý Mô- đun ở thế kỉ 20. Đây là định lý trứ danh nhất trong lịch sử toán học. Trước khi chứng minh được nó thì định lý đã được ghi vào sách kỷ lục
== Tổng quan về định lý ==
=== Nguồn gốc của định lý
Phương trình
=== Sự phát triển và những giải pháp sau đó ===
Dòng 66:
=== [[Pythagoras]] và [[Diofantos|Diophantus]] ===
[[Tập tin:Pythag anim.gif|nhỏ|Định lý Pythagoras về tam giác vuông]]
==== Bộ ba số
Trong thời cổ đại, người ta biết rằng một [[tam giác]] có các cạnh lần lượt có tỷ lệ tương ứng là 3: 4: 5 sẽ là một [[tam giác]] vuông. Điều này đã được sử dụng trong xây dựng và sau đó sớm được dùng trong hình học. Trong thời cổ đại, điều này đã được phát hiện ra chỉ là một ví dụ của một nguyên tắc chung rằng bất kỳ [[tam giác]] nào có tổng bình phương hai cạnh bất kỳ bằng bình phương cạnh còn lại thì [[tam giác]] đó là [[tam giác]] vuông.
Đây được gọi là định lý
Định lý cuối cùng của Fermat xem xét phương trình này cho bậc lớn hơn 2, và cho biết mặc dù có vô số bộ ba nguyên dương thỏa mãn phương trình cho n = 2, không có nghiệm dương nào cho n > 2.
Hàng 76 ⟶ 77:
Phương trình Fermat, x<sup>n</sup> + y<sup>n</sup> = z<sup>n</sup> với các nghiệm là số nguyên dương, là một ví dụ về phương trình Diophantine, được đặt tên theo tên của nhà toán học Alexandrian ở thế kỷ thứ ba, Diophantus, người đã nghiên cứu chúng và phát triển phương pháp để giải một số phương trình Diophantine. Một vấn đề Diophantine điển hình là tìm hai số nguyên x và y sao cho tổng của chúng và tổng bình phương bằng hai số A và B tương ứng:
A = x + y
B = x<sup>2</sup> + y<sup>2</sup>
Công việc chính của Diophantus là nghiên cứu cuốn ''Arithmetica'', nhưng trong đó chỉ còn một vài phần công việc của ông là còn tồn tại. Phỏng đoán của Fermat về Định lý Cuối cùng của ông đã được truyền cảm hứng khi đọc một ấn bản mới của một cuốn sách ''Arithmetica'', được Claude Bachet xuất bản và dịch sang [[Tiếng Latinh|tiếng La-tin]] vào năm 1621.
Phương trình Diophantine đã được nghiên cứu trong hàng ngàn năm. Ví dụ, phương trình Diophantine bậc hai x<sup>2</sup> + y<sup>2</sup> = z<sup>2</sup> được giải bởi các bộ ba số
==== Giả thuyết của Fermat ====
Hàng 91 ⟶ 92:
Vào khoảng năm 1637, Fermat đã viết bài toán cuối cùng của mình trong bản sao của Arithmetica bên cạnh vấn đề tổng bình phương của Diophantus.
Sau cái chết của Fermat năm 1665, con trai của ông, Clément-Samuel Fermat, đã sản xuất một ấn bản mới của cuốn sách (1670) với những nhận xét của cha mình. Mặc dù thời gian đó, nó không hẳn thực sự là một định lý
Không biết liệu Fermat có thực sự tìm ra cách chứng minh hợp lệ cho tất cả các số mũ n không, nhưng dường như nó là không chắc chắn. Chỉ có một bằng chứng liên quan của ông đã tồn tại, cụ thể là cho trường hợp n = 4, như mô tả trong phần Bằng chứng cho số mũ cụ thể. Trong khi Fermat đặt ra các trường hợp n = 4 và n = 3 như là những thách thức đối với các nhà toán học, như Marin Mersenne, Blaise Pascal, và John Wallis. Ông chưa bao giờ đưa ra một trường hợp chung. Hơn nữa, trong ba mươi năm cuối cùng của cuộc đời, Fermat không bao giờ viết về "cách chứng minh kỳ diệu thực sự" của ông về trường hợp chung, và không bao giờ xuất bản nó. Van der Poorten cho thấy rằng mặc dù sự thiếu xót của một chứng minh là không đáng kể, sự thiếu thách thức có nghĩa là Fermat nhận ra rằng ông không có cách chứng minh nào cả; Trích dẫn Weil thì người ta cho rằng Fermat phải có một thời gian ngắn lừa dối mình với một ý tưởng không thể cứu vãn được nữa.
Hàng 110 ⟶ 111:
== Lịch sử chứng minh định lý lớn Fermat ==
Cho tới đầu [[thế kỷ 20]] các nhà toán học chỉ chứng minh định lý này là đúng với ''n'' = 3, 4, 5, 7 và các bội số của nó. Nhà toán học người Đức [[Ernst Kummer]] đã chứng minh định lý này là đúng với mọi [[số nguyên tố]] tới 100 (trừ 3 [[Số nguyên tố phi chính quy]] là [[37 (số)|37]], [[59 (số)|59]], [[67 (số)|67]]).<ref name=":0" />
Nhà toán học vĩ đại người Thụy Sĩ Leonhard Euler (1707 – 1783) đã chứng minh định lý cho trường hợp n=3 và n=4.
Hàng 118 ⟶ 119:
Vào những năm 1840, Gabriel Lamé chứng minh với n=7.
200 năm sau Fermat, định lí mới được chứng minh với n = 3, 4, 5, 6 và 7.
Định lý quá khó và Bell trong cuốn sách “Bài toán cuối cùng” đã phải viết rằng: có lẽ nền văn minh của chúng ta cáo chung trước khi các nhà toán học tìm ra lời giải cho bài toán.
Hàng 154 ⟶ 155:
== Đọc thêm ==
* Simon Singh, ''Định Lý Cuối Cùng Của Fermat'', Phạm Văn Thiều và Phạm Việt Hưng dịch, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ
* Amir D. Aczel, ''Câu chuyện hấp dẫn về bài toán Phécma'', Trần Văn Nhung, Đỗ Trung Hậu, Nguyễn Kim Chi dịch, Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 2000
;''Tiếng Anh:''
|