Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rối loạn phát triển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ) → ), . → . (3), . <ref → .<ref (9) using AWB
n clean up using AWB
Dòng 29:
Khuyết tật học tập được chẩn đoán khi trẻ còn nhỏ và mới bắt đầu đi học. Hầu hết các khuyết tật học tập được tìm thấy dưới 9 tuổi.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=National, Disabilities Learning|year=1982|title=Learning disabilities: Issues on definition|url=|journal=Asha|volume=24|issue=11|pages=945–947}}</ref>
 
Trẻ nhỏ bị rối loạn giao tiếp có thể không nói được gì, hoặc có thể có vốn từ vựng hạn chế cho lứa tuổi của chúng.<ref name="comm">Communication Disorders. (n.d.). Children's Hospital of Wisconsin in Milwaukee, WI, Retrieved Decemberngày 6, tháng 12 năm 2011, from http://www.chw.org/display/PPF/DocID/</ref> Một số trẻ bị rối loạn giao tiếp gặp khó khăn trong việc hiểu các hướng đơn giản hoặc không thể đặt tên cho các đối tượng. Hầu hết trẻ bị rối loạn giao tiếp có thể nói khi đến trường, tuy nhiên, chúng tiếp tục gặp vấn đề với giao tiếp. Trẻ em trong độ tuổi đi học thường có vấn đề về hiểu và sắp xếp từ ngữ. Thanh thiếu niên có thể gặp khó khăn hơn với việc hiểu hoặc thể hiện ý tưởng trừu tượng.
 
=== Nguyên nhân ===
Dòng 36:
Một lý thuyết hỗ trợ các nguyên nhân môi trường của rối loạn phát triển liên quan đến căng thẳng ở thời thơ ấu. Nhà nghiên cứu và bác sĩ tâm thần trẻ em Bruce D. Perry, MD, Ph.D, đưa ra giả thuyết rằng các rối loạn phát triển có thể được gây ra bởi [[Ký ức chấn thương|chấn thương]] ở trẻ nhỏ.<ref name="Perry, Bruce D 2006, p.2">Perry, Bruce D. and Szalavitz, Maia. "The Boy Who Was Raised As A Dog", Basic Books, 2006, p.2. {{ISBN|978-0-465-05653-8}}</ref> Trong các tác phẩm của mình, ông so sánh các rối loạn phát triển ở trẻ em bị chấn thương với người lớn bị rối loạn căng thẳng sau chấn thương, liên kết căng thẳng môi trường cực đoan với nguyên nhân gây khó khăn phát triển. Các lý thuyết căng thẳng khác cho thấy rằng ngay cả những căng thẳng nhỏ cũng có thể tích lũy để dẫn đến [[Nổi loạn|rối loạn]] [[Rối loạn cảm xúc và hành vi|cảm xúc]], hành vi hoặc [[Nổi loạn|xã hội]] ở trẻ em.<ref>Payne, Kim John. “Simplicity Parenting: Using the Extraordinary Power of Less to Raise Calmer, Happier, and More Secure Kids”, Ballantine Books, 2010, p. 9. {{ISBN|9780345507983}}</ref>
 
Một nghiên cứu năm 2017 <ref>{{Chú thích web|url=https://www.ddduk.org/|tựa đề=Deciphering Developmental Disorders (DDD) project|tác giả=|tên=|ngày=|website=www.ddduk.org|nhà xuất bản=Wellcome Trust Sanger Institute|ngày truy cập=2017-01-27}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|last=McRae|first=Jeremy F.|last2=Clayton|first2=Stephen|last3=Fitzgerald|first3=Tomas W.|last4=Kaplanis|first4=Joanna|last5=Prigmore|first5=Elena|last6=Rajan|first6=Diana|last7=Sifrim|first7=Alejandro|last8=Aitken|first8=Stuart|last9=Akawi|first9=Nadia|year=2017|title=Prevalence and architecture of de novo mutations in developmental disorders|url=http://eprints.whiterose.ac.uk/114459/3/emss-78087.pdf|journal=Nature|volume=542|issue=7642|pages=433–438|bibcode=2017Natur.542..433M|doi=10.1038/nature21062|pmc=6016744|pmid=28135719}}</ref> đã thử nghiệm tất cả 20.000 gen trong khoảng 4.300 gia đình có trẻ em gặp khó khăn phát triển hiếm gặp ở [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]] và Ireland để xác định xem những khó khăn này có phải là nguyên nhân di truyền hay không. Họ đã tìm thấy 14 rối loạn phát triển mới gây ra bởi đột biến gen tự phát không tìm thấy ở cả bố và mẹ (chẳng hạn như lỗi ở [[CDK13 (gen)|gen CDK13]]). Họ ước tính rằng khoảng một trong 300 trẻ em được sinh ra với các đột biến gen tự phát liên quan đến các rối loạn phát triển hiếm gặp.<ref>{{Chú thích báo|url=https://www.bbc.co.uk/news/health-38691622|title=Child gene study identifies new developmental disorders|last=Walsh|first=Fergus|date =2017-01- ngày 25 tháng 1 năm 2017 |work=BBC News|access-dateaccessdate =2017-01- ngày 27 tháng 1 năm 2017}}</ref>
 
==Tham khảo==