Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chuyển đổi giới tính”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
nguồn không có câu này, còn các câu ngắn thì không tách thành đoạn riêng để tránh dài dòng
Dòng 32:
:''Thay đổi giới tính vốn là điều không thể làm được về mặt sinh học. Những người phẫu thuật chuyển giới sẽ không thay đổi từ nam sang nữ hoặc ngược lại. Thực chất, họ vẫn là những người nam bị nữ hoá hoặc người nữ bị nam hoá. Các tuyên bố kiểu như "chuyển đổi giới tính là quyền dân sự" và việc hợp pháp hóa phẫu thuật chuyển giới thực ra chính là sự cổ súy cho bệnh nhân rối loạn tâm thần tự gây hại cho sức khỏe của mình."''
 
Tuy nhiên, như ta đã biết, quá trình quyết định giới tính sinh học bản thân nó đã rất phức tạp. Có nhiều giới tính hơn chỉ là "đực" và "cái" (ở người, ngoài [[Nam giới|nam giới]] và [[Phụ nữ|nữ giới]] còn tồn tại [[Liên giới tính|liên giới tính]]), và có rất nhiều loài còn có hiện tượng chuyển từ giới tính nọ sang giới tính kia trong vòng đời của nó. Nhưng ở các loài động vật có vú thì hầu hết là [[Người hợp giới|hợp giới]]; người chuyển giới chiếm khoảng 0.3% người trưởng thành ở Mỹ. Hiện tượng chuyển giới này còn ít được biết đến, và có nhiều nghiên cứu - chủ yếu là nghiên cứu tâm lý học - bị bác bỏ. Tuy nhiên, các nhà khoa học có vẻ đã phát hiện ra một số yếu tố sinh học liên quan đến vấn đề này.
 
Hiện tượng chuyển giới này còn ít được biết đến, và có nhiều nghiên cứu - chủ yếu là nghiên cứu tâm lý học - bị bác bỏ. Tuy nhiên, các nhà khoa học có vẻ đã phát hiện ra một số yếu tố sinh học liên quan đến vấn đề này.
 
Đầu tiên, gen dường như có ảnh hưởng đến bản dạng giới, mặc dù cũng như nhiều yếu tố khác thì cũng có sự ảnh hưởng của môi trường. Một phương pháp quen thuộc để kiểm tra tính trạng có chịu phụ thuộc vào di truyền không là nghiên cứu các cặp song sinh. Cặp song sinh cùng trứng thì có gen giống nhau còn cập sinh đôi khác trứng thì chỉ giống nhau một nửa; cả hai đều thường được nuôi giống nhau.
 
Vào năm 1995 và 2000, 2 nhóm nghiên cứu độc lập so sánh một vùng của não bộ (BSTc) của cả phụ nữ và đàn ông chuyển giới lẫn hợp giới. BSTc của đàn ông to và dày đặc gấp đôi phụ nữ. Sự khác biệt giữa 2 giới tính này khá rõ rệt, và mặc dù các nhà khoa học không biết tại sao, đây có vẻ là một đặc trưng để so sánh não nam và nữ. Điều thú vị là, cả hai nhóm đều phát hiện ra rằng phụ nữ chuyển giới có BSTc giống với phụ nữ hợp giới và đàn ông chuyển giới cũng có BSTc giống đàn ông hợp giới. Sự tương đồng này xảy ra ngay cả khi các nhà khoa học đã tính đến trường hợp những người chuyển giới dùng hormone nên đã thí nghiệm trên cả những người hợp giới đang dùng hormone trái với giới tính của mình (vì lý do y tế nào đó). Do hormone có thể ảnh hưởng lớn đến cấu trúc não, nhiều nhóm nghiên cứu đã tách riêng người chuyển giới chưa trị liệu hormone và có kết quả tương tự.
 
Điều thú vị là, cả hai nhóm đều phát hiện ra rằng phụ nữ chuyển giới có BSTc giống với phụ nữ hợp giới và đàn ông chuyển giới cũng có BSTc giống đàn ông hợp giới. Sự tương đồng này xảy ra ngay cả khi các nhà khoa học đã tính đến trường hợp những người chuyển giới dùng hormone nên đã thí nghiệm trên cả những người hợp giới đang dùng hormone trái với giới tính của mình (vì lý do y tế nào đó). Do hormone có thể ảnh hưởng lớn đến cấu trúc não, nhiều nhóm nghiên cứu đã tách riêng người chuyển giới chưa trị liệu hormone và có kết quả tương tự.
 
Trị liệu hormone đã được cho thấy có ảnh hưởng tới cấu trúc của não; và như vậy, nhiều người đã phân tích não của người chuyển giới nam và chuyển giới nữ chưa (hoặc không qua) trị liệu hormone. Nhiều nghiên cứu đã xác nhận tính xác thực của những phát hiện trên, rằng người chuyển giới được sinh ra với bộ não của giới mà họ nhận dạng bản thân, thay vì là não của giới tính sinh học mà họ được sinh ra.
 
Trị liệu hormone đã được cho thấy có ảnh hưởng tới cấu trúc của não; và như vậy, nhiều người đã phân tích não của người chuyển giới nam và chuyển giới nữ chưa (hoặc không qua) trị liệu hormone. Nhiều nghiên cứu đã xác nhận tính xác thực của những phát hiện trên, rằng người chuyển giới được sinh ra với bộ não của giới mà họ nhận dạng bản thân, thay vì là não của giới tính sinh học mà họ được sinh ra. Mặc dù việc trị liệu hormone có thể ảnh hưởng đến các kết quả nói trên, điều này gợi ra một vài giả thuyết về nguồn gốc của sự khác nhau này: não phát triển chủ yếu trong quá trình mang thai, và những người chuyển giới nam có thể bị thiếu estrogen trong quá trình này, có thể là do thiếu hormone trong môi trường hoặc phôi tiếp thu tín hiệu yếu. <ref>{{Chú thích web|url=http://sitn.hms.harvard.edu/flash/2016/gender-lines-science-transgender-identity/?fbclid=IwAR1I448lvH8CCmWiL2eXyTFuqCYrDnsj_zKyzKw6Ix9bHKjoQulmHljnGZU|tựa đề=Between the (Gender) Lines: the Science of Transgender Identity|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=Harvard University|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=no|ngày truy cập=ngày 4 tháng 7 năm 2020}}</ref>
 
Như vậy, nguyên nhân dẫn tới việc một người là chuyển giới hay hợp giới dường như phụ thuộc vào cấu trúc não của bản thân họ, về việc họ sinh ra có não của giới nào.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.sciencedaily.com/releases/2018/05/180524112351.htm|tựa đề=Transgender brains are more like their desired gender from an early age|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=ScienceDaily|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=no|ngày truy cập=ngày 4 tháng 7 năm 2020}}</ref>