Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giác Hải”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Phancung (thảo luận | đóng góp)
Bổ sung thông tin
Dòng 1:
{{Thiền sư Việt Nam}}
Thiền sư '''Giác Hải ''' (覺海, 1024 (? 1023)?1138) là người họ Nguyễn <ref>Sách ''[[Thiền uyển tập anh]]'' không cho biết tên tục, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược cho biết ông tên húy là Nguyễn Viết Y. Song tra trong sách ''[[Đại Nam nhất thống chí]]'', tỉnh [[Ninh Bình]], mục "Từ miếu", thì thấy chép: "Ðền đời Nguyễn Giác Hải ở tại xã Yên Vệ, huyện Yên Khánh (nay thuộc [[Ninh Bình]]). Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải, người Giao Thủy, Hải Nam (nay là tỉnh [[Nam Định]]) sinh khoảng thời [[Lý Thái Tông]]. Nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên Vệ, cùng với [[Lý Quốc Sư|Nguyễn Minh Không]] (tức [[Lý Quốc Sư]]) kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Ðược đạo rồi, bèn trở về Giao Thủy, trụ trì chùa Nghiêm Quang". Theo GS. [[Lê Mạnh Thát]] thì chùa Nghiêm Quang tức là chùa Thần Quang, còn được gọi là chùa Keo, hiện tọa lạc ở xã Duy Nhất, huyện [[Vũ Thư]], tỉnh [[Thái Bình]].</ref>; là thiền sư [[Việt Nam]] thời [[nhà Lý]], thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền [[Vô Ngôn Thông]]<ref>Theo HT. [[Thích Thanh Từ]],''Thiền sư Việt Nam'', tr. 155.</ref>.
 
==Thân thế==
Thiền sư '''Giác Hải '''tên húy là Nguyễn Viên Y, sinh năm thứ 15 - Giáp Tý, niên hiệu Thuận Thiên (1023), mất ngày mùng 4 tháng giêng năm Thiệu Minh (1138) đời vua Lý Anh Tông, thọ 115 tuổi là người hương Hải Thanh, phủ Hải Thanh (đời trần là Thiên Thanh sau đổi là phủ Xuân Trường thuộc huyện Xuân Trường - [[Giao Thủy]], tỉnh [[Nam Định]])<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://sach.nlv.gov.vn/sach/cgi-bin/sach?a=d&d=kKsRZ1933.2.2.4.2&e=-------vi-20--1--img-txIN-------|tựa đề=Địa dư Quỳnh Côi 1933|tác giả=Ngô Vi Liễn|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=07/07/2020}}</ref>
Thiền sư '''Giác Hải ''' là người hương Hải Thanh, phủ Hải Thanh (nay thuộc huyện [[Giao Thủy]], tỉnh [[Nam Định]]).
Theo sách "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược" (Phòng Địa chí - Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì: Không Lộ tên chính là [[Lý Quốc Sư|Nguyễn Chí Thành]] người xã Điềm Xá huyện [[Gia Viễn]] cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền - Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viết Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư [[Từ Đạo Hạnh]] người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.<ref>[http://thuviennamdinh.vn/userfiles/T%C3%A2n%20bi%C3%AAn%20Nam%20%C4%90%E1%BB%8Bnh%20t%E1%BB%89nh%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20d%C6%B0%20ch%C3%AD%20l%C6%B0%E1%BB%A3c%20-%20Khi%E1%BA%BFu%20N%C4%83ng%20T%C4%A9nh(8).pdf Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược]</ref>
 
Theo Đại Nam nhất thống chí, Sư tên Quốc Y, hiệu Giác Hải, người Giao Thủy, Hải Nam, nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên Vệ ([[Yên Khánh]], [[Ninh Bình]]) cùng với [[Nguyễn Minh Không]] (tức [[Lý Quốc Sư]]) kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Ðược đạo rồi, bèn trở về Giao Thủy, trụ trì chùa Nghiêm Quang tức [[Chùa Keo Hành Thiện]] ngày nay.<ref>sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Ninh Bình, mục "Từ miếu</ref>
 
Theo Địa chí Nam Định thì ngài kết bạn với [[Dương Không Lộ]], [[Từ Đạo Hạnh|Từ đạo Hạnh]] và cúng sang Tây Trúc thành đạo.
 
==Hành trạng==
Thuở traitthiếuu trẻthời, ông làm nghề đánh cá, thường lênh đênh trên sông biển.
Năm 25 tuổi, ông dứt bỏ thế nghiệp, xuống tóc đi tu. Lúc đầu, ông với [[Nguyễn Minh Không]] theo học đạo với nhà sư Hà Trạch ở chùa Diên Phước. Sau sư lại kế thừa dòng pháp [[Vô Ngôn Thông]].
 
Thời vua [[Lý Nhân Tông|Lý Nhân Tông (1072-1128)]], thiền sư Giác Hải và Thông Huyền chân nhân có lần được vời vào hoàng cung ngồi hầu vua. ĐếnMỗi đờilần vua [[Lýra Thầnchơi Tông]],Hải thiềnThanh bao Giácgliờ Hải được triệucũng vào nhiều lần, nhưng đều viện cớ bệnhchùa đểthăm khôngông tớitrước.
 
Đến đời vua [[Lý Thần Tông]] (1128-1137), thiền sư Giác Hải được nhiều lần triệu vào cung, song ông đều viện cớ già yếu để từ chối.
Lúc sắp tịch, thiền sư gọi chúng đến dạy kệ rằng:
Hàng 21 ⟶ 25:
:Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
:Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
:<u>Dịch nghĩa:</u>
:[[Ngô Tất Tố]] dịch thơ:
:''Xuân sang hoa bướm khéo quen thìvới thời tiết.,''
:''Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kỳ hạn của chúng.''
:''Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ
:''Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo''
:''Nên biết bướm hoa đều huyền ảo <ref>GS. [[Lê Mạnh Thát]] dịch là "hư huyễn".</ref>
:''ThâyChớ hoanên mặcbận bướm,tâm đểvề lònghoa chivới bướm.''
 
Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống ngay góc đông nam nhà phương trượng. Thiền Sư ngồi nói chuyện đến sáng rồi ngồi ngay ngắn mà mất (không rõ năm mất).<ref>Chép theo ''[[Thiền uyển tập anh]]''. Sách ''[[An Nam chí nguyên]]'' 3 tờ 211 chép tương tự: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có Sao Hỏa rơi vào Thái thất. Ðến sáng, Sư mất".</ref>. Vua xuống chiếu cho lấy thuế ba mươi hộ để cúng hương hỏa, và cho hai người con trai <ref>Trước năm 25 tuổi Nguyễn Giáp Hải làm nghề đánh cá, đã có vợ con, sau mới xuất gia (theo chú thích của Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga).</ref> của thiền sư ra làm quan để tỏ lòng khen thưởng.
 
==Giai thoại==
Hàng 36 ⟶ 40:
:''Thần thông cùng biến hóa
:''Một [[Phật]], một thần tiên".
:Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải Thanh, vua tất đến chùa Sư trước.
:Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng?". Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho pháp hiệu '''Giác Hải tính chiếu đại sư'''<ref name=":0" /> và một kiệu vai, để ra vào của khuyết...
 
== Di văn ==
:(Một lần) có vị tăng hỏi: "[[Phật]] và chúng sanh ai khách, ai chủ?".
:Sư dùng bài kệ đáp:
:'''<big>Bất giác nữ đầu bạch - Ai biết má đào mà bạc tóc</big>'''
:''"Gái tơ chỏm tóc bạc
 
:''Báo ngươi tác giả biết
==== <big>不覺女頭白  </big> ====
:''Nếu hỏi cảnh giới Phật
<big>不覺女頭白,</big>
 
<big>報你作者識。</big>
 
<big>若問佛境界,</big>
 
<big>龍門遭點額。</big>
 
<u>Phiên âm</u>
:'''''" Liễu dụng nữ đầu bạch'''''
:'''''Báo nhĩ tác giả thức'''''
:'''''Nhược vẫn Phật cảnh giới'''''
:'''''Long môn tao điểm ngạch"'''''
:''<u>Dịch nghĩa</u>''
:Nào ai biết rằng trong cô gái trẻ trung đã thấy mái đầu bạc; Nói cho người học đạo hiểu, Nếu cứ lo tìm hỏi đâu là cõi Phật, Thì cũng như cá chép nhảy thi ở Long Môn bị "chấm trán" (thi trượt-không vượt qua Long Môn) mà thôi.
:<u>Huệ Chi và Băng Thanh dịch thơ:</u>
:Ai biết má đào mà bạc tóc,
:Khuyên người cầu học hiểu cho sâu.
:Ví như cõi Phật hoài công hỏi,
:Cá vượt Long môn bị điểm đầu.
:''<u>Lê Mạnh Thát dịch thơ:</u>''
:''"Gái tơ chỏm tóc bạc''
:''Báo ngươi tác giả biết''
:''Nếu hỏi cảnh giới Phật''
:''Long môn gặp điểm trán"'' <ref>[[Phiên âm Hán-Việt]]: Liễu dụng nữ đầu bạch/ Báo nhĩ tác giả thức / Nhược vẫn Phật cảnh giới/ Long môn tao điểm ngạch. GS. [[Lê Mạnh Thát]] chú thích: "A giác nữ đầu bạch": người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. "Long môn tao điểm ngạch": theo tích tháng 3 [[cá chép]] vượt cửa Rồng (Long môn) để thành [[rồng]], nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về.</ref>.
:[[Ngô<u>Đỗ TấtQuang Tố]]Liên dịch thơ:</u>
:''Má đào ai biết bạc đầu,'' ''Khuyên người cầu học hiểu sâu khỏi nhầm;'' ''Lo tìm cõi Phật mênh mông,'' ''Ví như cá nhảy Long Môn chấm đầu!''
:
:'''<big>Một bài thơ (kệ) khác của thiền sư Giác Hải cũng được in trong tập Thơ văn Lý Trần</big>'''
:<big>'''Hoa diệp - hoa và bướm'''</big>
:'''<big>春來花蝶善知時,</big>''' '''<big>花蝶應須共應期.</big>''' '''<big>花蝶本來皆是幻,</big>''' '''<big>莫須花蝶向心持.</big>''' ''<u>Phiên âm:</u>''
:''Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,'' ''Hoa điệp ứng tu cộng ứng kỳ.'' ''Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,'' ''Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.''
:<u>Dịch nghĩa:</u>
:''Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết.,''
:''Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kỳ hạn của chúng.''
:''Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo''
:''Chớ nên bận tâm về hoa với bướm.'' <u>Ngô Tất Tố dịch thơ :</u> ''Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,'' ''Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.'' ''Nên biết bướm hoa đều huyền ảo,'' ''Thây hoa, mặc bướm, để lòng chi.'' <u>Lê MạnhThát dịch thơ:</u> ''Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,'' ''Cần nhau hoa bướm biết nhau khi.'' ''Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn,'' ''Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi.''
:<u>Một dị bản khác trong địa dư Quỳnh Côi:</u>
:'''''"Xuân lai hoa diệp tiện chi thi'''''
:'''''Hoa diệp ưng tu đã ứng kỳ'''''
:'''''Hoa diệp bản lai giai thị ảo'''''
:'''''Mạc tu tiều táo hướng tâm trì"'''''<ref name=":0" />               
 
== Thờ ở làng Nghĩa Xá ==
Di tích lịch sử văn hóa chùa Viên Quang đựoc Bộ văn hóa thông tin xếp hạng năm 1991, thuộc làng Nghĩa Xá - Xuân Ninh - Xuân Trường - Nam Định là nơi thiền sư Giác Hải trụ trì và viên tịch. Chùa có lối bài trí tiền Phật hậu Thánh.
 
Tại diây còn lưu giữ tấm bia đá "Viên Quang tự bi minh tính tự" di Dĩnh Đạt soạn khắc năm Thiên Trù Duệ Vũ thứ ba (1122) ca ngợi công đức ngài Giác Hải.
 
==Được thờThờ ở làng Yên Vệ==
Làng Yên Vệ thuộc xã [[Khánh Phú, Yên Khánh|Khánh Phú]] huyện [[Yên Khánh]], tỉnh [[Ninh Bình]]. Nơi đây có đền thượng và chùa Phúc Long, là một quần thể kiến trúc có giá trị về lịch sử và văn hoá. Chùa Phúc Long thờ phật và thờ Tiên thiên Thánh Mẫu, mẹ của Giác Hải thiền sư. Đền Thượng thờ tam thánh: Giác Hải, [[Từ Đạo Hạnh]] và [[Nguyễn Minh Không]].
 
Hàng 54 ⟶ 107:
*[[Thích Thanh Từ]], ''Thiền sư Việt Nam'', mục: "Thiền sư Giác Hải". Thành hội [[Phật giáo]] [[Thành phố Hồ Chí Minh]] ấn hành năm 1992.
*[[Nguyễn Q. Thắng]]-Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', mục từ: "Nguyễn Giác Hải". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
*Thơ văn Lý Trần tập 1. NXB Khoa học xã hội, 1977, trang 443 thiền sư Giác Hải; trang 450 "Viên Quang tự bi minh tính tự"
 
== Chú thích ==