Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rối loạn đa nhân cách”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎top: AlphamaEditor, Executed time: 00:00:04.5696433 using AWB
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 32:
 
== Định nghĩa ==
[[Phân liệt (tâm lý học)|Phân liệt]] là từ chuyên môn làm cơ sở để chuẩn đoán các loại bệnh [[rối loạn phân liệt]] bao gồm DID. Từ này không có định nghĩa khoa học chính xác được đồng thuận rộng rãi.<ref name = Hersen2012>{{chú thích sách |editor=Hersen M |editor2=Beidel DC |last=Lynn |first=SJ |author2=Berg J |author3=Lilienfeld SO |author4=Merckelbach H |author5=Giesbrecht T |author6=Accardi M |author7= Cleere C |year=2012 |title=Adult Psychopathology and Diagnosis |publisher=[[John Wiley & Sons]] |isbn=978-1-118-13882-3 |chapter=14 - Dissociative disorders |pages=497–538|chapter-url=https://books.google.com/books?id=FeDHhTVZ5yMC&pg=PA497}}</ref><ref name = Kihlstrom>{{cite journal | author = Kihlstrom JF | title = Dissociative disorders | journal = Annual Review of Clinical Psychology | volume = 1 | pages = 227–53 | year = 2005 | pmid = 17716088 | pmc = | doi = 10.1146/annurev.clinpsy.1.102803.143925 | issue=1}}</ref><ref name = Harper/> Một số lượng lớn các chịutriệu chứng được chuẩn đoán phân liệt là bao gồm từ sự mất tập trung bình thường cho tới sự suy nhược trí nhớ thường thấy ở các bệnh rối loạn phân liệt. Do đó hiện tại không rõ là nếu như có một nguyên nhân chung cho tất cả các chịu chứng phân liệt hoặc nếu như các chịu chứng từ nhẹ tới nặng là hậu quả của các nguyên căn và cấu trúc sinh học khác nhau.<ref name = Hersen2012/> Các từ chuyên môn khác như nhân cách, trạng thái nhân cách, [[bản sắc (khoa học xã hội)|bản sắc]], trạng thái cái tôi, và trạng thái [[mất trí nhớ]] cũng không có định nghĩa được thống nhất.<ref name = Kihlstrom/><ref name="pmid15560314">{{cite journal |vauthors=Piper A, Merskey H | title = The persistence of folly: Critical examination of dissociative identity disorder. Part II. The defence and decline of multiple personality or dissociative identity disorder | journal = Canadian Journal of Psychiatry| volume = 49 | issue = 10 | pages = 678–683 | year = 2004 | pmid = 15560314 | url = https://ww1.cpa-apc.org/Publications/Archives/CJP/2004/october/piper.pdf | doi=10.1177/070674370404901005}}</ref> Có một số mô hình chuẩn đoán bệnh bao gồm những chịu chứng không thuộc loại phân liệt và loại bỏ một số chịu chứng phân liệt.<ref name = Kihlstrom/> Mô hình chuẩn đoán được phổ biến rộng rãi nhất xem DID là trạng thái cực đoan của trạng thái phân liệt. Còn mô hình [[dòng chảy (tâm lý)|dòng chảy]] để giải thích trạng thái phân liệt thì vẫn còn gây tranh cãi.<ref name = Harper>{{cite journal | last1 = Harper | first1 = S. | title = An examination of structural dissociation of the personality and the implications for cognitive behavioral therapy | journal = The Cognitive Behaviour Therapist | volume = 4 | issue = 2 | pages = 53–67 | year = 2011 | pmid = | pmc = | doi = 10.1017/S1754470X11000031 }}</ref>
 
Một số từ ngữ mới được tạo ra để mô tả những hiện tượng trong trạng thái phân liệt. Nhà tâm thần học Paulette Gillig giải thích sự khác biệt giữa hai từ được sử dụng nhiều trong các thảo luận về bệnh DID là "trạng thái cái tôi" (ego state) và "nhân cách". Trạng thái cái tôi là những hành vi và trải nghiệm có thể trộn lẫn với những trạng thái cái tôi khác nhưng chỉ có một cái tôi duy nhất, và mỗi nhân cách đều có bộ trí nhớ khác nhau, khả năng tư duy riêng biệt, và mỗi nhân cách tự nhận mình là một người khác nhau. Ellert Nijenhuis và các đồng nghiệp đưa ra giả thuyết là có sự khác biệt giữa "nhân cách bình thường" (nhân cách thường thấy hàng ngày) và "nhân cách cảm xúc" (nhân cách này xuất hiện khi có [[phản ứng chiến hay chạy]], ký ức chấn thương mãnh liệt, và cảm xúc đau đớn).<ref name= Nijenhuis>{{cite journal | format = PDF | url = http://w.activitas.org/index.php/nervosa/article/view/81/125 | title = Trauma-related structural dissociation of the personality | last = Nijenhuis | first = E | author2 = van der Hart O | author3 = Steele K | volume = 52 | issue = 1 | year = 2010 | pages = 1–23 | journal = Activitas Nervosa Superior | doi = 10.1007/BF03379560 | accessdate = ngày 21 tháng 1 năm 2012 | archive-url = https://web.archive.org/web/20120619015519/http://w.activitas.org/index.php/nervosa/article/view/81/125 | archive-date = ngày 19 tháng 6 năm 2012 | url-status = dead }}</ref> Otto van der Hart và các đồng nghiệp tạo ra từ mới "cấu trúc phân liệt của nhân cách" để mô tả trạng thái phân liệt do các sự kiện chấn thương hoặc bệnh lý gây ra. Cấu trúc phân liệt được chia ra làm ba bậc. Bậc một bao gồm một nhân cách bình thường và một nhân cách cảm xúc. Bậc hai bao gồm một nhân cách bình thường và ít nhất hai nhân cách cảm xúc. Bậc ba bao gồm ít nhất hai nhân cách bình thường và hai nhân cách cảm xúc. Theo thuyết này thì DID thuộc cấu trúc bậc ba.<ref name = Hersen2012/> Một số nhà tâm thần học khác đưa ra giả thuyết rằng trạng thái phân liệt có thể chia thành hai hình thái riêng biệt, [[vô cảm]] và [[chia ngăn (tâm lý)|chia ngăn]]. Trạng thái chia ngăn là sự mất kiểm soát những quá trình hoặc hành động tự chủ thường thấy ở bệnh DID. Các nghiên cứu để phân biệt trạng thái phân liệt bình thường và phân liệt bệnh lý vẫn chưa được cộng đồng tâm thần học chấp nhận rộng rãi.<ref name = Hersen2012/>