Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Thú lông nhím”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 59:
 
== Các mối đe dọa ==
Thú lông nhím là loài thú rất nhút nhát. Khi chúng cảm thấy bị đe dọa, chúng cố tự chôn mình, hoặc nếu bị lộ chúng sẽ cuộn tròn thành một quả bóng giống như loài [[nhím gai]], cả hai phương pháp đều sử dụng gai của chúng để che chắn cho chính mình. Hai cánh tay trước mạnh mẽ cho phép thú lông nhím tiếp tục đào bới nhanh, trong khi bị giữ chặt bởi những thú săn mồi đang cố gắng kéo chúng ra khỏi hố. Mặc dù chúng có cách để tự vệ cho bản thân, thú lông nhím vẫn phải đối mặt với nhiều mối nguy hiểm. Một số thú săn mồi gồm [[mèo hoang]], [[cáo]], [[Chó|chó nhà]] và [[kỳ đà]]. [[Rắn]] gây ra mối đe dọa lớn cho thú lông nhím vì chúng có thể dễ dàng trượt vào hang của chúng, và ăn những con thú lông nhím non. Một số biện pháp phòng ngừa có thể được thực hiện bao gồm giữ sạch môi trường bằng cách nhặt rác và gây ô nhiễm ít hơn, trồng [[thảm thực vật]] để thú lông nhím sử dụng làm nơi trú ẩn, giám sát [[vật nuôi]], báo cáo cho chạm y tế động vật khi thấy những con bị thương hoặc chỉ để chúng yên. Chỉ việc nắm lấy chúng có thể làm chúng bị [[Căng thẳng (tâm lý)|stress]], và cầm chúng lên không đúng cách thậm chí có thể gây thương tích cho chúng.<ref name="NSW5">{{cite web|url=http://www.environment.nsw.gov.au/resources/nature/Factsheet3Echidnas.pdf|title=Echidnas: Helping them in the wild|last=Carritt|first=Rachel|publisher=NSW National Parks and Wildlife Service|accessdate=13 April 2013}}</ref>
 
== Tiến hóa ==
[[File:Echidna_skeleton.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Echidna_skeleton.jpg|nhỏ|Bộ xương [[thú lông nhím mỏ ngắn]]]]
Sự khácphân biệtkỳ đầu tiên giữa động vật có vú (đẻ trứng)viviparousđộng (convật có vú đẻ con phát triển bên trong) được cho là đã xảy ra trong thời kỳ [[Kỷ Tam Điệp|Triassic]].<ref>{{cite journal|vauthors=Rowe T, Rich TH, Vickers-Rich P, Springer M, Woodburne MO|year=2008|title=The oldest platypus and its bearing on divergence timing of the platypus and echidna clades|journal=Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A.|volume=105|issue=4|pages=1238–42|doi=10.1073/pnas.0706385105|pmc=2234122|pmid=18216270}}</ref> Tuy nhiên, vẫn còn một số bất đồng về thời gian phân kỳ được ước tính này. Mặc dù hầuđa hếtsố các phát hiện từ các nghiên cứu di truyền học (đặc biệt là các nghiên cứu liên quan đến gen hạt nhân) phù hợp với các phát hiện cổ sinh vật học, một số kết quả từ các kỹphương thuậtpháp và nguồn khác, như DNA ty thể, không hoàn toàn đồng ý với các phát hiện từ hóa thạch.<ref>{{cite journal|author=Musser AM|year=2003|title=Review of the monotreme fossil record and comparison of palaeontological and molecular data|journal=Comp. Biochem. Physiol., Part a Mol. Integr. Physiol.|volume=136|issue=4|pages=927–42|doi=10.1016/s1095-6433(03)00275-7|pmid=14667856}}</ref>
 
Dữ liệu đồng hồ phân tử cho thấy Thúthú lông nhím tách ra từ thú mỏ vịt từ 19 đến 48 triệu năm trước, những hóa thạch giống như thú mỏ vịt có niênnguồn đạigốc hơn 112,5 triệu năm trước, do đó đại diện cho các dạng nền bảnmóng, thay vì những họ hàng gần của loài thú mỏ vịt hiện đạinay. Điều này có nghĩa là Thúthú lông nhím tiến hóa từ tổ tiên tìm kiếm nước đã trở lại để sống hoàn toàn trên đất, mặc dù điều này khiến chúng cạnh tranh với các loài [[thú có túi]]. Bằng chứng nữathêm về tổ tiên tìm kiếm nước có thể được tìm thấy trong một số đặc điểm kiểu hình của thú lông nhím là tốt. Những đặc điểm này bao gồm tinh giản thủy động lực học, chân tay chiếu phía sau đóng vai trò như bánh lái và đầu máy được thiết lập trên trục xoay dài hài hước bị phì đại, cung cấp mộtlực cú bơi rất hiệu quả. Do đó, sinh sản noãn trong các [[Bộ Đơn huyệt|thú đơn bàohuyệt]] có thể giúp chúng có lợi thế hơn so với [[thú có túi]], một quan điểm phùnhất hợpquán với phân vùng sinh thái hiện tại giữa hai nhóm. Ưu điểm này cũng có thể là một phần chịu trách nhiệm cho bức xạ thích nghi liên quan đến quan sát và sự mở rộng không gian thích hợp, cùng với đó mâu thuẫn với giả định khá phổ biến về sự tiến hóa hình thái và phân tử bị dừng lại tiếp tục liênđược quangắn đếnkết với các thú đơn thứchuyệt. Hơn nữa, các nghiên cứu về DNA ty thể trong thú mỏ vịt cũng đã phát hiện ra rằng các thú đơn bàohuyệt và thú có túi rất có thể là nhóm chị em taxi. Nó cũng ngụ ý rằng bất kỳ đặc điểm hình thái có nguồn gốc chung nào giữa thú có túi và động vật có vú đều xảy ra độc lập với nhau hoặc bị mất trong dòng dõi thành thú đơn loàihuyệt.<ref>{{cite journal|vauthors=Janke A, Xu X, Arnason U|year=1997|title=The complete mitochondrial genome of the wallaroo (''Macropus robustus'') and the phylogenetic relationship among Monotremata, Marsupialia, and Eutheria|journal=Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A.|volume=94|issue=4|pages=1276–81|doi=10.1073/pnas.94.4.1276|pmc=19781|pmid=9037043}}</ref>
 
== Phân loại ==