Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Minh Ký”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
FutureBot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thay thể loại Họ Trương Việt Nam bằng Người họ Trương tại Việt Nam
Thêm hoạt động sự nghiệp, đánh giá, tên đường và tên trường
Dòng 1:
'''Trương Minh Ký''' (''張明記'', [[1855]]-[[1900]]), tự '''Thế Tải''', hiệu '''Mai Nham''', là nhà giáo, nhà báo, nhà văn, hóanhà soạn tuồng [[Việt Nam]]. Cũng như thầy mình là [[Trương Vĩnh Ký]], ông có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học Quốc ngữ, Việtđược Namxem là nhà văn viết chữ Quốc ngữ đầu tiên<ref>{{Chú thích báo|url=https://tuoitre.vn/truong-minh-ky-nha-van-viet-chu-quoc-ngu-dau-tien-20190429123903436.htm|title=Trương Minh Ký - Nhà văn viết chữ quốc ngữ đầu tiên|last=Nhật Vy|first=Trần|date=2019-04-29|work=Tuổi Trẻ Online|access-date=2020-07-21}}</ref>.
 
==Thân thế và sự nghiệp ==
Theo ''"Trương gia từ đường thế phả toàn tập"'' thì nguyên tổ của Trương Minh Ký ''"Trương Đạt, tự Văn phòng. Ông nguyên quán tỉnh [[Quảng Bình]], phủ Quảng Ninh, huyện Khang Lộc (nay là Phong Lộc) tổng Hoàng Phổ, xã Trường Dục, thiên cư vào tỉnh [[Bình Định]], phủ Quy Nhơn (nay là An Nhơn) huyện Tuy Viễn, tổng Thời Hòa (nay là Mỹ Thuận) thôn Nhơn Thuận (xưa là An Mỹ) lấy nghề nông làm nghiệp"''<ref>''"Trương gia từ đường thế phả toàn tập"'', Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, trang 5.</ref>. Đệ nhất tổ của Trương Minh Ký là ông Trương Minh Kiều. Tuy gia tộc lập nghiệp tại Bình Định, nhưng ''"ông tổ đời một (1725-1778) tức người đầu tiên, đầu xuân [[Mậu Dần]], vào khai canh tại Hanh Thông xã, thuộc [[Gò Vấp]] nay."''<ref>''"Trương gia từ đường thế phả toàn tập"'', Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, trang 6.</ref>. Danh tướng [[Trương Minh Giảng]] là hậu duệ đời thứ ba của dòng họ này, còn Trương Minh Ký là đời thứ 5.
 
ÔngTrương Minh Ký nguyên tên là '''Trương Minh Ngôn''' (''張明言''), sinh ngày [[23 tháng 10]] năm [[1855]] (nhằm giờ Thìn ngày 13 tháng 9 năm [[Ất Mão]] dưới thời Tự Đức (tức ngày [[23 tháng 10]] năm [[1855]]), tại làng HanhHạnh Thông, thuộc tổng Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh [[Gia Định (tỉnh)|Gia Định]] (nay thuộc quận [[Gò Vấp]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]]). SongSau thânnày, ôngkhi được ônghọc với thầy Trương MinhVĩnh CẩnKý (張永記), vì kính phụcmuốn Phạmnoi Thịgương Nguyệtthầy nên đã thêm chữ Kỷ (己) vào sau tên Ngôn (言), đổi tên thành '''Trương Minh Ký''' (張明記).
Cũng theo ''"Trương gia từ đường thế phả toàn tập"'' thì đệ nhất tổ của Trương Minh Ký là ông Trương MInh Kiều. Tuy gia tộc lập nghiệp tại Bình Định, nhưng ''"ông tổ đời một (1725-1778) tức người đầu tiên, đầu xuân [[Mậu Dần]], vào khai canh tại Hanh Thông xã, thuộc [[Gò Vấp]] nay."''<ref>''"Trương gia từ đường thế phả toàn tập"'', Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, trang 6.</ref>. Danh tướng [[Trương Minh Giảng]] là hậu duệ đời thứ ba của dòng họ này, còn Trương Minh Ký là đời thứ 5.
 
Trương Minh Cẩn, cha của ông, vốn xuất thân từ gia đình buôn bán, là trưởng nam nhưng không nối nghiệp mà theo nghiệp nho. Trương Minh Cẩn có hai vợ, chính thất là bà Phạm Thị Nguyệt và kế thất là bà Đặng Thị Ký. Trương Minh Ký là con trai trưởng của Trương Minh Cẩn và Phạm Thị Nguyệt, có hai người em, một em gái (cùng mẹ) và một em trai (con bà kế thất). Mẹ ông cũng vốn là con dòng Nho giáo nhưng tiếc thay mất rất sớm, khi tuổi đời vừa tròn 25. Trương Minh Ký mồ côi mẹ khi tuổi mới lên 7, nhưng bù lại ông được cha chăm lo giáo dục chu đáo<ref>{{Chú thích web|url=http://www.truongtoc.com.vn/public/index.php/truong-minh-ky-nha-van-nha-bao-dat-sai-gon-gia-dinh|tựa đề=Trương Minh Ký - nhà văn - nhà báo đất Sài Gòn - Gia Định|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>.
Ông nguyên tên là '''Trương Minh Ngôn''' (''張明言''), sinh nhằm giờ Thìn ngày 13 tháng 9 năm [[Ất Mão]] dưới thời Tự Đức (tức ngày [[23 tháng 10]] năm [[1855]]), tại làng Hanh Thông, thuộc Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh [[Gia Định (tỉnh)|Gia Định]] (nay thuộc quận [[Gò Vấp]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]]). Song thân ông là ông Trương Minh Cẩn và bà Phạm Thị Nguyệt.
 
==Sự= nghiệpĐi giáohọc dục===
Ông bắt đầu học chữ Hán với cha và bà nội, học chữ Quốc ngữ với giáo sĩ [[Paul-François Puginier|Puginier Phước]] là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông chừng hai cây số. Dù đều được giáo sĩ dạy chữ nhưng khác với hai tiền bối nổi danh cùng thời là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký không cải đạo theo Công giáo.
Thân mẫu mất sớm khi ông mới lên 7 tuổi, nhưng bù lại ông được cha chăm lo giáo dục chu đáo. Từ nhỏ, ông được cha gửi đi học chữ Nho tại trường đạo của [[Trương Vĩnh Ký]]. Sau khi học xong [[Ngũ kinh]] ông chuyển sang học [[tiếng Pháp]]. Do có năng khiếu cùng với sự chuyên cần, ông sớm trở thành một trong những học trò giỏi nhất của trường nên rất được thầy Sĩ Tải quý mến. Và do cảm mến tài đức của thầy nên ông đã thêm chữ ''Kỷ'' (''己'') vào sau tên ''Ngôn'' (''言''), đổi tên thành Trương Minh Ký.
 
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) và tại đây ông đã gặp được thầy giáo Trương Vĩnh Ký.
Năm 19 tuổi, sau khi đỗ Chứng chỉ Cao đẳng sư phạm (''Brevet supérieur des instituteurs'') tại Trường Khải Tường (sau được gọi là [[Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh|Trường Chasseloup Laubat]]). Sau khi tốt nghiệp, do thông Hán văn và giỏi Pháp văn, ông được thầy giữ lại để dạy chữ Nho và chữ Tây cho học sinh lớp sau. Ông cũng được Trương Vĩnh Ký giới thiệu làm [[thông ngôn]] cho các quan chức thuộc địa Pháp, đồng thời làm giáo viên của Trường Thông ngôn (''Collège des interprètes''), [[Trường Hậu bổ (Sài Gòn)|Trường Sĩ Hoạn]] (''Collège des administrateurs stagiaires'').
 
Sau đó, ông theo học tại trường Bổn quốc ([[Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh|Collège Chasseloup-Laubat]]) và đỗ Chứng chỉ Cao đẳng sư phạm (''Brevet supérieur des instituteurs'') vào năm 19 tuổi.
Năm 1879, ''"Trương Minh Ký nguyên làm trợ giảng hạng ba, lên hạng nhì; lương mỗi năm: 1400 quan tiền"''<ref>Bùi Đức Tịnh, ''"Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ Mới"'', Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 1992.</ref>. Với vốn kiến thức rộng, tinh thông nhiều ngôn ngữ, đầu năm 1880, ông được [[Thống đốc Nam Kỳ]] [[Charles Le Myre de Vilers]] giao nhiệm vụ đưa 10 học sinh [[Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh|Trường Bổn quốc]], trong đó có [[Nguyễn Trọng Quản]], [[Diệp Văn Cương]] sang du học bậc Cao đẳng ở [[Algiers|Alger]].
 
=== Cộng tác với thực dân Pháp ===
==Sự nghiệp dang dở==
Sau khi ra trường, Trương Minh Ký được giữ lại dạy chữ Hán sau khi tốt nghiệp trường Bổn quốc. Trước đó, ông từng làm trợ giáo ở trường Saigon (École normale de Saigon), tục gọi là trường Khải Tường. Năm 1874, được thăng hạng thành thầy giáo dạy giúp<ref>''Gia Định Báo'' ngày 1/2/1874 (số 3): "Trường Khải-tường : Trương-minh-Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1,400 quan tiền."</ref>. Ông cũng được Trương Vĩnh Ký giới thiệu làm thông ngôn cho các quan chức thuộc địa Pháp, đồng thời làm giáo viên của [[Trường Hậu bổ (Sài Gòn)|Trường Sĩ Hoạn]] (''Collège des administrateurs stagiaires'').
[[Tập tin:Gia Dinh Bao.jpg|nhỏ|Tờ Gia Định báo.]]
Bên cạnh việc dạy học, ông còn cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ [[Gia Định báo]], [[Thông Loại Khóa Trình]] cũng như viết sách dạy Pháp văn. Ông có cách hành văn rất bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và [[Huỳnh Tịnh Của]], chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi.
 
Năm 1875, 20 tuổi, ông lập gia đình và có tổng cộng ba người vợ, mười ba người con, theo ''Trương gia từ đường thế phả toàn tập''. Nhưng xét theo bản gia phả do chính ông lập thì chỉ thấy tên của bà chính thất là Nguyễn Thị Nhờ - con gái của quan tri huyện Nguyễn Như Cương, quê xã Bình Hòa. Kết quả của cuộc hôn nhân này mười người con, sáu trai bốn gái.
Năm 1889, ông được cử làm thông ngôn cho phái đoàn triều đình Huế đi sứ sang Pháp tham dự Hội Đấu xảo tại Paris. Trong chuyến đi này, ngày [[3 tháng 7]] năm 1889, ông được Huỳnh Quốc công Miên Triệu đặt cho biệt hiệu '''Thế Tải''' (''世載''). Khi về nước, ông được triều đình [[Thành Thái]] ân thưởng Kim khánh trung hạng cùng với cặp cống sa màu lục và màu hồng. Nhà nước Pháp phong thưởng cho ông tước Hàn lâm viện cùng một số tiền lớn.
 
Năm 1879, ông được thăng chức Huấn đạo ở tuổi 24.
Sau khi về nước, ông vẫn tiếp tục công việc viết báo, sáng tác và làm thông sự ở ty Phiên dịch Nam Kỳ từ năm 1890 đến ngày tạ thế.
 
Năm 1880, với vốn kiến thức rộng, tinh thông nhiều ngoại ngữ, ông được [[Thống đốc Nam Kỳ]] [[Charles Le Myre de Vilers]] tín nhiệm và giao phận sự dìu dắt mười học sinh trường Bổn quốc, trong đó có [[Nguyễn Trọng Quản]], [[Diệp Văn Cương]] sang du học bậc Cao đẳng ở Alger. Chuyến đi Tây đầu tiên đã tạo cơ hội cho ông bổ sung thêm vốn ngoại ngữ cũng như nhiều kiến thức văn hóa cho bản thân.
Ông ngã bệnh và mất đột ngột ngày 17 tháng 7 năm [[Canh Tý]] (tức ngày [[11 tháng 8]] năm [[1900]], khi mới 45 tuổi. Mộ ông được táng bên cạnh mộ vợ ở phía sau Trương Gia Từ (nhà thờ gia tộc họ Trương - ngày nay nằm trong khuôn viên của nhà dân tại số 163/25 E, đường Nguyễn Văn Nghi, phường 7, quận [[Gò Vấp]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]], xem clip https://www.youtube.com/watch?v=YNE2GbBQeTo).
 
Năm 1881, ông tham gia vào ban biên tập tờ [[Gia Định báo|''Gia Định Báo'']] (trước đó đã từng có khoảng thời gian dài cộng tác thời Trương Vĩnh Ký làm Chánh tổng tài). Nhiều nghiên cứu khác cho rằng ông làm chủ bút tờ báo Quốc ngữ đầu tiên này từ 1881-1896. Khi đó, tờ báo chính thức trở thành công báo với hầu hết các trang đều đăng văn bản, nghị định... của chính quyền. ''Gia Định Báo'' thời Trương Minh Ký có hai thay đổi căn bản. Một là, phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Hai là, ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng tác văn học, trở thành trang văn học đầu tiên trên báo chí Quốc ngữ nước ta. Hai truyện ngắn văn xuôi ''Tên chăn bò'' và ''Thằng ăn trộm với con heo'', viết lại theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1/12/1881 là những truyện đầu tiên của nền văn học chữ Quốc ngữ, giúp ông được mệnh danh là nhà văn Quốc ngữ đầu tiên. Sau này, ông cũng cộng tác tích cực với nguyệt san [[Thông loại khóa trình|''Thông loại khóa trình'']] của Trương Vĩnh Ký.
==Vinh danh==
Ông được trao tặng:
 
Song song đó, có nghi vấn cho rằng Trương Minh Ký từng xuống làm việc tại Mỹ Tho, không rõ thời gian ông đến và đi nhưng theo ''Trương gia từ đường thế phả toàn tập'' thì người con thứ năm của ông đã được hạ sinh tại Mỹ Tho vào tháng 3/1883, có thể đây là thời điểm Trương Minh Ký đã ở và làm việc tại đó. Trong những năm tháng ở Mỹ Tho, ông đã giúp dân chúng Gò Công mở đường sá, xây dựng trường học, tạo điều kiện cho con em ở đó có cơ hội đến trường.
- Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d'académie)
 
- Kim Khánh bội tinh của Nam triều và Hoàng gia Campuchia.
Năm 1885, ông dạy tiếng Pháp ở Trường Thông ngôn (''Collège des interprètes)'' cùng Trương Vĩnh Ký<ref>Gia Định Báo ngày 21/3/1885: "Chọn ông Pétrus Ký, là giáo sỉ tiếng phương đông, dạy tiếng Annam tại trường thông ngôn ; Ông Trương-minh-Ký, là giáo sỉ hạng nhứt tại trường Bổn-quấc, Xù là giáo tập hạng nhứt tại trường Long-xuyên, đều lảnh cấp bằng làm trợ giáo về việc dạy Langsa tại trường thông ngôn, mỗi người đều ăn phụ bổng mỗi năm là 120 đồng."</ref>.
 
Năm 1889, Trương Minh Ký làm thông ngôn cho phái đoàn của triều đình Huế đi sứ sang Pháp tham dự Hội Đấu xảo tại Paris. Ngày [[3 tháng 7]] năm 1889, ông được Huỳnh Quốc công Miên Triệu đặt cho biệt hiệu '''Thế Tải''' (世載). Kể từ đó, trong các sáng tác của ông, người ta thấy ông luôn đặt tên hiệu ngay trước tên mình, một phần cũng vì tên hiệu thể hiện được quan hệ thầy trò khăng khít giữa ông với Trương Vĩnh Ký: Của thầy là Sĩ Tải còn trò là Thế Tải. Cũng trong chuyến đi này, nhận thấy công lao cũng như vốn kiến thức uyên bác của Trương Minh Ký, ông được Pháp phong thưởng Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d'Académie) cùng một món tiền. Khi về nước, ông được triều đình [[Thành Thái]] ban cho kim khánh trung hạng cùng cặp cống sa màu lục và màu hồng. Tuy nhiên, chưa thể kết luận chính xác loại kim khánh<ref>Gia Định Báo ngày 3/6/1890 (số 22): "Kim-Kháng trung hạng ; một bên : ''Thành-thái sắc tứ'' ; một bên, ''Báo nghĩa thù huân''". Tuy vậy, dưới thời vua Thành Thái, nếu kim khánh trung hạng thì phải được khắc dòng ''Gia thiện sinh năng'', không thể là ''Báo nghĩa thù huân'' của hạng nhất được.</ref>.
 
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn. Trương Minh Ký vẫn tiếp tục công việc viết báo, sáng tác văn chương.
 
Năm 1890, ông bắt đầu làm thông sự ở ty Phiên dịch Nam Kỳ.
 
Năm 1897, ông làm chủ bút tờ ''Nam Kỳ'' cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa.
 
ÔngTrương Minh Ký ngã bệnh và mất đột ngột vào ngày 17[[11 tháng 78]] năm [[Canh Tý1900]] (tức ngày [[1117 tháng 8]]7 năm [[1900Canh Tý]]), khitại Chợ Lớn, mớithọ 45 tuổi. Mộ của ông được táng bên cạnh mộ vợ ở phía sau Trương Gia Từ (nhà thờ gia tộc họ Trương - ngày nay, nằm trong khuôn viên của nhà dân tại số 163/25 E, đường Nguyễn Văn Nghi, phường 7, quậnQuận [[Gò Vấp]], [[ThànhTP phố Hồ Chí Minh]], xem clip https://www.youtube.com/watch?v=YNE2GbBQeTo)HCM.
 
== Đánh giá ==
Nhà nghiên cứu Bằng Giang<ref>{{Chú thích sách|title=Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930|last=Bằng Giang|first=|publisher=NXB Trẻ|year=1992|isbn=|location=TP HCM|pages=}}</ref>:<blockquote>''Trương Minh Ký chẳng những là người mở đầu việc dịch thuật văn học Hán-Việt, mà còn là người đi tiên phong trong văn học dịch Pháp-Việt nữa.''</blockquote>Nhà nghiên cứu Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa:<blockquote>''Cả ba nhà báo Việt Nam tiên phong (Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký) đều là những công chức tận tụy cộng tác trong chế độ thuộc địa Pháp, đồng thời họ cũng là những học giả uyên thân, hoạt động xã hội tích cực, đem tài năng phục vụ mục tiêu mưu cầu tiến bộ cho đồng bào mình.''</blockquote>
 
== Tên đường và tên trường ==
Từ thời Pháp thuộc, tên của Trương Minh Ký đã được đặt cho một ngôi trường tiểu học trên đường Trần Hưng Đạo. Sau này, trường được đổi tên thành [[Nguyễn Thái Học]].
 
Tên của ông cũng được đặt cho một con đường từ cầu Lê Văn Sĩ đến Lăng Cha Cả. Tuy vậy, đường cũng đã đổi tên thành [[Lê Văn Sĩ|Lê Văn Sỹ]].
 
Hiện tại, có một con đường nhỏ mang tên ông ở quận Gò Vấp, [[Thành phố Hồ Chí Minh]].
 
==Tác phẩm==
Hàng 35 ⟶ 54:
* ''Riche et Pauvre. Phú bần truyện diễn ca'' (S.: Guilland et Martinon, 1885 - 24 p.; 0$20)
* ''Fables de la Fontaine traduites en annamite pour la première fois. Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ'' (S.: Rey et Curiol, 1886 - 80 p.; 0$50)
* ''Leçon de langue annamite. Cours autographié au collège des Interprètes'' (et MM. Chéon) (1886 ?)
* ''Les aventures de Télémaque de Fénélon, suive du Châu tử gia huấn'' (S.: Rey et Curiol, 1887 - 24 p.; 0$20)
* ''Joseph, tragédie tirée de l'histoire sainte. Tuồng Joseph'' (S.: Rey et Curiol, 1888 - 16 p.; 0$10)