Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thập tự chinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}{{POV}}
{{Thập tự chinh}}
[[Tập tin:1099jerusalem.jpg|nhỏ|phải|300px|[[Jerusalem]] năm 1099]]
'''Thập tự chinh''' là một loạt các cuộc [[chiến tranh tôn giáo]], được kêu gọi bởi [[Giáo hoàng]] và tiến hành bởi các vị [[vua]] và [[quý tộc]] là những người tình nguyện cầm lấy [[Thánh Giá|cây thập giá]] với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của [[Kitô giáo]] với vùng [[Đất Thánh]]. Quân thập tự đến từ khắp [[Tây Âu]], và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa năm [[1095]] và [[1291]]. Các chiến dịch tương tự ở [[Tây Ban Nha]] và [[Đông Âu]] tiếp tục vào [[thế kỷ XV]]. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người [[Giáo hội Công giáo Rôma]] chống lại người [[Hồi giáo]] và các tín hữu Kitô giáo theo [[Chính Thống giáo Đông phương]] trong [[Byzantium]], với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại [[người Slav]] ngoại giáo, [[Balts]] ngoại giáo, [[Mông Cổ]], và người Kitô giáo ngoại đạo <ref name="OHC" />. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng <ref name="OHC">Riley-Smith, Jonathan. ''The Oxford History of the Crusades'' New York: Oxford University Press, 1999. ISBN 0-19-285364-3.</ref><ref name="TFC">Riley-Smith, Jonathan. ''The First Crusaders, 1095–1131'' Cambridge University Press, 1998. ISBN 0-521-64603-0.</ref>.
 
Các cuộc Thập Tự Chinh ban đầu có mục tiêu thu hồi lại [[Jerusalem]] và Đất Thánh khỏi ách thống trị của Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo [[đế quốc Đông La Mã|đế chế Byzantine]] để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của người [[Thổ Seljuk]] theo đạo Hồi tới [[Tiểu Á|Anatolia]]. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở [[thế kỷ XVI]] ở vùng lãnh thổ bên ngoài [[Levant]] <ref>Như lãnh thổ Hồi giáo ở [[Al-Andalus]], [[Ifriqiya]], và [[Ai Cập]], cũng như ở [[Đông Âu]]</ref>, thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lý do tôn giáo, kinh tế, và chính trị <ref>e.g. the [[Albigensian Crusade]], the [[Aragonese Crusade]], the [[Reconquista]], and the [[Northern Crusades]].</ref>. Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô giáo với [[Vương quốc Hồi giáo của Rûm]] trong cuộc [[Thập Tự Chinh thứ năm]].
 
Các cuộc Thập Tự Chinh đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều tác động từ chính trị, kinh tế và xã hội sâu rộng ở [[châu Âu]]. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc [[Thập Tự Chinh thứ tư]], dẫn đến sự chia cắt của [[Constantinopolis]] Thiên chúa giáo và sự phân vùng của đế chế Byzantine giữa [[Cộng hòa Venice|Venice]] và quân Thập tự. Cuộc [[Thập tự chinh thứ sáu]] là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính thức của Đức Giáo hoàng <ref>{{Chú thích web| họ 1=Halsall | tên 1=Paul | tháng=December | năm=1997 | url=http://www.fordham.edu/halsall/source/1228frederick2.html
| tiêu đề=Philip de Novare: ''Les Gestes des Ciprois'', The Crusade of Frederick II, 1228–29 | work=Medieval Sourcebook | nhà xuất bản=Fordham University
| ngày truy cập = ngày 8 tháng 2 năm 2008}}—"Gregory IX had in fact excommunicated Frederick before he left Sicily the second time"</ref>. Các cuộc [[Thập Tự Chinh thứ bảy]], [[Thập Tự Chinh thứ tám|thứ tám]] và [[Thập Tự Chinh thứ chín|thứ chín]] đã dẫn đến kết quả là chiến thắng của [[Mamluk]] và [[triều đại Hafsid]], như cuộc Thập Tự Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở [[Trung Đông]] <ref>The Gospel in All Lands By Methodist Episcopal Church Missionary Society, Missionary Society, Methodist Episcopal Church, pg. 262</ref>.
 
== Bối cảnh, nguyên nhân, động cơ ==
Khoảng [[thế kỷ VII|thế kỷ thứ VII]], những người đứng đầu [[hồi giáo|đạo Hồi]] tiến hành [[Những cuộc xâm lược của người Hồi Giáo|các cuộc trường chinh xâm chiếm]] các vùng đất mới. Từ năm [[660]] đến năm [[710]], các giáo sĩ [[Hồi giáo]] đã chiếm được một [[lãnh thổ]] rộng lớn ở [[Bắc Phi]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]]. Đến năm [[720]], những kỵ binh [[Hồi giáo]] chiếm [[Tây Ban Nha]] rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ [[Pháp]]; từ năm [[830]] đến năm [[976]] [[Sicilia]] và miền nam [[Ý]] rơi vào tay người [[Hồi giáo]]. Lúc này, những đoàn hành hương của tín đồ [[Kitô giáo]] về các miền [[Đất Thánh]] mà trong đó [[Palestine]] là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ IV và đến thế kỷ XI đã trở nên rất thịnh hành. [[Người Thổ Seljuk]] [[Hồi giáo]] không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng [[Kitô giáo]]{{fact|date = ngày 16 tháng 4 năm 2013}}.
 
Cũng sang thế kỷ XI, [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]] (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở [[châu Âu]]. Lúc này, nguy cơ người [[Hồi giáo]] tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người [[Kitô giáo]] đặc biệt là sau khi quân đội [[Đế quốc Đại Seljuk|Seljuk]] đánh bại quân [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] trong [[trận Manzikert]] năm [[1071]] và bắt được cả hoàng đế [[Romanus IV]] thì con đường tiến về [[Constantinopolis]] đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách [[Constantinopolis]] vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở [[Tiểu Á]], Hoàng đế [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ [[Giáo hoàng]] và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]] và [[Giáo hội Công giáo Rôma]] xảy ra năm [[1054]]. Ngày [[27 tháng 11]] năm [[1095]] tại Hội nghị giám mục, [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] (tại vị 1088-1099) kêu gọi các [[hiệp sĩ]], [[hoàng tử]] [[phương Tây]] và tín đồ [[Kitô giáo]] đến giúp đỡ tín hữu [[Kitô giáo]] [[phương Đông]] đồng thời giành lại những vùng [[Đất Thánh]] đã mất.
 
Mặc dù những cuộc thánh chiến mang đậm màu sắc [[tôn giáo]], nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó còn có các động cơ [[kinh tế]], [[chính trị]], [[xã hội]]:
* Tôn giáo: việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người [[Kitô giáo]] được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước khi [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: ''chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng''.<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 314">Mortimer Chambers,...; Tr. 314.</ref>. Các đạo quân thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ.
* Kinh tế, chính trị: những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số [[châu Âu]] phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người [[Đức]] vào [[phương Đông]] cũng như cuộc xâm chiếm của người [[Tây Ban Nha]]{{fact|date = ngày 16 tháng 4 năm 2013}}. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của [[phương Tây]] với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người [[Đức]] và người [[Tây Ban Nha]] ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp [[hiệp sĩ]] và [[nông dân]] du cư ở [[Palestine]].
* Xã hội: tầng lớp [[hiệp sĩ]] đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số [[châu Âu]] trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành [[chiến tranh]] và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] đã nói với các hiệp sĩ của nước [[Pháp]] như sau: "''Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau.''"<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 314"/> Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó ''các cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời [[Trung Cổ]].''<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 315">Mortimer Chambers,...; Tr. 315.</ref> cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành Clairvaux đã nói: "''Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.''".''<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 315"/>
 
== Các cuộc Thập tự chinh ==
Về danh sách các cuộc thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể lên đến 9 cuộc tùy quan điểm.
=== Thập tự chinh thứ nhất (1095 - 1099) ===
[[Tập tin:SiegeofAntioch.jpeg|nhỏ|250px|Cuộc bao vây Antioch trong [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]]]]
{{chính|Thập tự chinh thứ nhất}}
Tháng 9 năm [[1095]], [[Giáo hoàng Urbanô II|Giáo hoàng Urban II]] đã có một bài thuyết giảng tại [[Clermont]], miền nam nước [[Pháp]] kêu gọi giới [[quý tộc]] đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội [[phương Tây]] và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của [[nông dân]] và người nghèo ở miền bắc [[Pháp]] và châu thổ [[rhine|sông Rhine]] cùng với một số [[hiệp sĩ]] và [[Tu sĩ|tu sỹ]] vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người [[Do Thái]], từ Cologne (Đức) vượt qua [[Bulgaria]], [[Hungary]] rồi kéo đến [[Constantinopolis|Constantinople]]. Sau khi được hoàng đế [[Alexios I]] của [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] đưa qua eo [[Bosporus|Bosphorus]], họ nhanh chóng bị quân đội [[Thổ Nhĩ Kỳ]] đánh tan.
 
Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: [[Robert xứ Normandy]] (con trai của [[William I của Anh|William the Conqueror]]); [[Godfrey xứ Bouillon]] cùng hai anh trai là [[Baldwin xứ Boulogne]] và [[Robert xứ Flanders]]; [[Raymon IV xứ Toulouse]]; [[Bohemond I xứ Antioch]], [[Tancred xứ Taranto]],... Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến [[Constantinopolis|Constantinople]] năm [[1096]] và [[1097]] để từ đó tấn công [[nhà Seljuk ở Rum]]. Cuối tháng 4 năm [[1097]], đội quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của [[nhà Seljuk ở Rum|người Seljuk]] và giành được thắng lợi đầu tiên trong [[trận Dorylaeum]]<ref>Dorylaeum: một thành phố cổ thuộc [[Tiểu Á]], phế tích của nó ở gần thành phố Eskisehir ngày nay.</ref> ngày [[1 tháng 7]] năm [[1097]]. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng [[Antioch]]<ref>Antioch: một thành phố cổ ở địa điểm nay là thành phố Antakya, Thổ Nhĩ Kỳ.</ref> và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về [[Jerusalem]]. Ngày [[7 tháng 6]] năm [[1099]], ''Thập tự quân'' tới [[Jerusalem]] và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày [[15 tháng 7]] năm [[1099]], thập tự quân đột kích chiếm [[Jerusalem]] và tàn sát các tín đồ [[Hồi giáo]], [[Do Thái giáo]] cũng như cả [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]]<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 317.</ref>. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến [[Antiochia]] và [[Jerusalem]] thì [[Baldwin xứ Boulogne]] tách đội quân của mình ra để chiếm [[Edessa]]<ref>Edessa: thành phố cổ phía nam Thổ Nhĩ Kỳ, ở vị trí nay là Sanliurfa (Urfa)</ref>, nơi ông thiết lập ''Công quốc thập tự quân'' đầu tiên ở [[phương Đông]]. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của [[Venezia|Venice]] và [[Genova|Genoa]], Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông [[Địa Trung Hải]] và thiết lập bá quốc Tripoli và một số tiểu quốc khác.
 
Kết quả của [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]] là đã lập ra một loạt những ''Công quốc Thập tự quân'': [[Edessa]], [[Antioch]], [[Tripoli]]... và đặc biệt là [[Jerusalem]] trải rộng trên khắp vùng [[Cận Đông]].
 
=== Thập tự chinh thứ hai (1147 - 1149) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ hai}}
Năm [[1144]], việc quân [[Hồi giáo]] tái chiếm [[Edessa]] và uy hiếp [[Jerusalem]] đã dẫn đến cuộc [[thập tự chinh thứ hai]] do [[Giáo hoàng Êugêniô III|Bernard thành Clairvaux]] tích cực phát động. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua [[Louis VII của Pháp]], một do vua [[Konrad III (Hohenstaufen)]] của [[Đức]] chỉ huy lên đường chiếm [[Damas]]cus ([[Syria]]) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho [[Jerusalem]]. Cuộc đột chiếm [[Damas]]cus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua [[Nur ad-Din Zangi]], vị tiểu vương [[Hồi giáo]] đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của [[Damas]]cus. Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân [[Bắc Âu]] dừng lại ở [[Lisboa]] và cùng với người [[Bồ Đào Nha]] chiếm lại thành phố này từ người [[Hồi giáo]].
 
=== Thập tự chinh thứ ba (1189 - 1192) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ ba}}
[[Tập tin:RichardSaladin.jpg|nhỏ|350px|Hình được cho là vẽ Richard Sư tử tâm và Saladin]]
Sau khi [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] chiếm được [[Ai Cập]], trở thành [[Sultan]] ở đây và thống nhất các tín đồ [[Hồi giáo]], [[Syria]] bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người [[Kitô giáo]] có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm [[1187]], [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] đánh bại quân Thập tự và chiếm lại [[Jerusalem]] nên nguy cơ công quốc thập tự quân này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế [[Friedrich I của Đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich I Barbarossa]] của [[đế quốc La Mã Thần thánh|đế quốc La Mã thần thánh]], vua [[Philippe II của Pháp|Philippe II Auguste]] của [[Pháp]] cùng vua [[Richard I của Anh|Richard I Sư tử tâm]] của [[Anh]] đồng loạt tiến quân về [[phương Đông]], tiến hành cuộc [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|Thập tự chinh thứ ba]]. Ngày [[10 tháng 6]] năm [[1190]], Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ [[Tiểu Á]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] và [[Philippe II của Pháp|Philippe II Auguste]] đã vây hãm và chiếm được [[Acre (Israel)|Acre]]<ref>Acre: một thành phố cảng nằm ven vịnh Haifa, Israel.</ref>, đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở [[Tây Âu]]. Mặc dù vậy, [[cuộc thập tự chinh thứ ba|thập tự chinh thứ ba]] kết thúc trong bế tắc, Richard phải ký hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc [[Jerusalem]] vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ [[Acre, Israel|Acre]] đến [[Jaffa]] và việc người [[Kitô giáo]] hành hương được quyền viếng thăm [[Jerusalem]] trong 3 năm là kết quả của cuộc viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm [[1192]], con tàu của [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] bị hỏng ở [[Aquileia]] ([[Ý]]), ngay trước [[Lễ Giáng Sinh|Giáng Sinh]] năm ấy, ông bị [[Nước Đức thời Trung cổ#Heinrich VI. v.C3.A0 cu.E1.BB.99c chi.E1.BA.BFn gi.C3.A0nh ngai v.C3.A0ng|Leopold V (Công tước Áo)]] bắt giữ rồi trao cho hoàng đế [[Nước Đức thời Trung cổ#Heinrich VI. v.C3.A0 cu.E1.BB.99c chi.E1.BA.BFn gi.C3.A0nh ngai v.C3.A0ng|Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh)]]. [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] bị cầm tù cho đến [[4 tháng 2]] năm [[1194]] mới được giải phóng sau khi đã trả tiền chuộc.
 
=== Thập tự chinh thứ tư (1202 - 1204) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ tư}}
[[Tập tin:ConquestOfConstantinopleByTheCrusadersIn1204.jpg|nhỏ|Quân Thập tự chinh đánh chiếm Constantinople vào năm 1204]]
Cuộc [[Thập tự chinh thứ tư]] bắt đầu năm [[1202]] do [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Innôcentê III|Innocent III]] phát động với mục tiêu chiếm [[Ai Cập]] để từ đó tấn công [[Jerusalem]]. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với [[Venezia]] nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang [[Ai Cập]], để đổi lại, người [[Venezia]] sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc <ref>Dịch giả: Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hằng, Trần Văn La. Lịch sử thế giới trung đại. Trang 54. Nhà xuất bản giáo dục.2006.</ref>. Sau đó, [[Venezia]] đề nghị đội quân thập tự chinh đánh chiếm [[Zara]], địch thủ thương nghiệp của Venezia <ref>Zara: một thành phố thuộc Croatia ngày nay, nằm ven biển Adriatic.</ref>, một thành phố cũng của người [[Kitô giáo]]. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm [[Zara]] vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người [[Venezia]] lại thuyết phục thập tự quân tấn công [[Constantinopolis|Constantinople]], thủ đô của [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]] theo [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]]. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày [[12 tháng 4]] năm [[1204]]. ''Mặc dù [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Innôcentê III|Innocent III]] cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố''<ref>Mortimer Chambers,..; Tr. 321.</ref>. Sau đó người [[Venezia]] và ''Thập tự quân'' phân chia [[đế quốc Đông La Mã|đế quốc Byzantine]] thành các công quốc và thống trị cho đến năm [[1261]]. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà ''Thập tự quân'' không tiếp tục tiến về [[Đất Thánh]].
 
=== Thập tự chinh thứ năm (1217 - 1219) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ năm}}
[[Thập tự chinh thứ năm]] do [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Hônôriô III|Honorius III]] tổ chức, ''Thập tự quân'' năm [[1217]] gồm các đạo quân do [[Leopold VI (Công tước Áo)]] và [[András II của Hungary]] dẫn đầu, đến năm [[1218]], quân đội của ''Oliver thành Cologne'' và một đội quân hỗn hợp của vua [[Hà Lan]] [[Willem I của Hàn Lan|Willem I]] cũng tham gia. Mục tiêu của ''Thập tự quân'' lần này là tấn công [[Ai Cập]]. Năm [[1218]], ''John thành Brienne'', vua [[Jerusalem]] bị thay thế. Năm [[1219]], ''Thập tư quân'' công chiếm [[Damietta]]<ref>Damietta: thành phố cảng ở Ai Cập, cách Cairo 200 km về phía bắc.</ref> và [[Giáo hoàng]] cử đại diện là Pelagius<ref>Pelagus: tên thật là Pelagio Galvani (? - 1230), Hồng y người Tây Ban Nha.</ref> thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người [[Hồi giáo]] đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và [[Jerusalem]] nhưng Pelagius từ chối. Năm [[1219]], ''Thập tự quân'' định tấn công [[Cairo]] nhưng không vượt qua được [[sông Nin]] đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội [[Hồi giáo]] đã gây nhiều thiệt hại cho ''Thập tự quân'' và Damietta bị tái chiếm.
 
=== Thập tự chinh thứ sáu (1228 - 1229)<ref>Có tài liệu không coi đây là một cuộc Thập tự chinh riêng rẽ mà ghép nó vào cuộc Thập tự chinh thứ năm</ref> ===
{{chính|Thập tự chinh thứ sáu}}
Đoàn quân do hoàng đế [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh)]] đứng đầu tiến hành [[Thập tự chinh thứ sáu]] năm [[1228]] nhưng nhanh chóng quay trở về và [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich II]] đã bị [[Giáo hoàng]] rút phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm [[1229]] ông đạt được với người [[Hồi giáo]] một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát [[Jerusalem]], [[Nazareth]] và [[Bethlehem]] cùng với một hành lang từ [[Jerusalem]] ra biển cho những người [[Kitô giáo]]. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở [[Jerusalem]], Friedrich II đã tự phong mình làm vua ở đây năm [[1229]]. Năm [[1244]], [[Jerusalem]] thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê [[Hồi giáo]] và người [[Kitô giáo]] chỉ trở lại kiểm soát được thành phố này vào năm [[1917]].
 
=== Thập tự chinh thứ bảy (1248 - 1254) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ bảy}}
Sau khi [[Jerusalem]] bị chiếm, vua [[Pháp]] [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm [[1247]], mục tiêu lần này vẫn là [[Ai Cập]]. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm [[1248]], ông vẫn chiếm được [[Damietta]] một cách dễ dàng và tiến quân về [[Cairo]] năm [[1249]]. Tuy nhiên, ''Thập tự quân'' nhanh chóng bị quân [[Hồi giáo]] của [[Baybars I]] và ''Emir Fakr ed-Din'' đánh bại trong [[trận Mansoura]]<ref>Mansoura hay El Mansurah: một thành phố trong vùng châu thổ sông Nin, cách Cairo 120 km về phía đông bắc.</ref> ngày [[8 tháng 2]] năm [[1250]], Damietta lại rơi vào tay người [[Hồi giáo]]. Vua [[Louis IX của Pháp]] bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc.
 
=== Thập tự chinh thứ tám (1270) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ tám}}
[[Tập tin:PriseDeConstantinople1204PalmaLeJeune.JPG|nhỏ|trái|150px|Chiếm [[Constantinopolis|Constantinople]] năm 1204]]
Các sự kiện [[Jaffa]] và [[Antioch]] bị người [[Hồi giáo]] chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do [[Louis IX của Pháp|Vua Louis IX]] tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến [[Tunisia]], ''Thập tự quân'' tấn công [[Tunis]] nhưng ngày [[25 tháng 8]] năm [[1270]], [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] chết ở gần [[Tunis]] vì [[dịch hạch|bệnh dịch hạch]]. Sau đó đội quân của [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] cùng với đoàn ''Thập tự quân'' do hoàng tử [[Anh]] [[Edward I của Anh|Edward]] tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không đạt kết quả nào. Cuộc tấn công [[Tunis]] ngừng lại còn hoàng tử Edward dẫn quân tới [[Acre, Israel|Acre]]. Những hoạt động của đội quân do hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm [[1271]] - [[1272]] có tài liệu gọi là [[Thập tự chinh thứ chín]], có tài liệu lại ghép vào cùng với [[Thập tự chinh thứ tám]]. Trong hai năm này, hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến khi ông đình chiến và quay trở về [[Anh]] để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà vua [[Henry III của Anh|Henry III]]. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người [[Kitô giáo]] tới miền [[Đất Thánh]]. Năm [[1289]], [[Tripoli]] bị người [[Hồi giáo]] chiếm và tới năm [[1291]], khi [[Cuộc vây hãm Acre (1291)|Acre]] cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời trung cổ kết thúc.
 
=== Thập tự chinh thứ chín 1271–1272 ===
{{chính|Thập tự chinh thứ chín}}
 
=== Thập tự chinh phía Bắc (Baltic và Đức) ===
=== Các cuộc thập tự chinh khác ===
Ngoài những cuộc thập tự chinh tới miền [[Đất Thánh]], một số hoạt động quân sự khác trong giai đoạn này cũng được gọi là Thập tự chinh như: chiến dịch quân sự chống lại giáo phái Albi ở vùng [[Languedoc-Roussillon|Languedoc]], [[Pháp]] từ năm [[1209]] đến năm [[1229]]; sự kiện thực hư lẫn lộn xảy ra năm [[1212]] khi hàng loạt trẻ em kéo tới [[Ý]] được gọi là [[Thập tự chinh của trẻ em]]; hay các hoạt động quân sự chống lại người [[Tarta]], những cuộc hành binh đến [[Thụy Điển]], vùng [[Balkan]]... cũng được coi là Thập tự chinh.
 
== Các hiệp sĩ tham gia thập tự chinh ==
 
Ngay sau cuộc [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]], các [[hiệp sĩ]] đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh, bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều [[phương Tây]] cũng như đóng vai trò quan trọng trong xã hội [[châu Âu]] thời kỳ đó.
* ''[[Hiệp sĩ dòng Đền]]'' (hay ''Hiệp sĩ Đền thờ''; [[Tiếng Pháp]]: Ordre du Temple) do các hiệp sĩ [[Pháp]] thành lập đầu thế kỷ XII. Họ sống chung với nhau trong các khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ [[Công quốc Jerusalem]], đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối [[tây Âu]] với các ''Công quốc Thập tự quân''. Các ''Hiệp sĩ Đền thờ'' cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy ''trở thành thể chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại''<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 321.</ref>. Năm [[1321]], các hoạt động của ''Hiệp sĩ Đền thờ'' bị [[Giáo hoàng]] ra lệnh cấm.
* ''[[Hiệp sĩ Cứu tế|Hiệp sĩ Cứu tế Thánh Gioan]]'' hay gọi ngắn gọn là ''Hiệp sĩ Cứu tế'' ([[Tiếng Anh|Anh ngữ]]:Knights Hospitaller): do các hiệp sĩ ở [[Jerusalem]] thành lập vào khoảng năm [[1103]]. Tuy quân số không đông bằng ''Hiệp sĩ Đền thờ'' nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm [[1291]], sau khi thành [[Acre (Israel)|Acre]] thất thủ, tổng hành dinh của ''Hiệp sĩ Cứu tế'' dời đến [[Cộng hòa Síp]] rồi sau đó đến đảo [[Rhodes]] và cuối cùng là đảo [[Malta]]. Cùng với các hiệp sĩ ở [[Malta]], họ cai trị hòn đảo này cho đến năm [[1798]] khi [[Napoléon Bonaparte]] chiếm [[Malta]] trên con đường chinh phục [[Ai Cập]]. Các hiệp sĩ trở thành ''Giai cấp tối cao'' (sovereign order) ở [[Malta]] và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công việc bác ái.
* ''[[Hiệp sĩ Teuton|Hiệp sĩ Giéc-man]]'' (tiếng Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm [[1190]] ở [[Acre, Israel|Acre]] để bảo vệ các đoàn hành hương người [[Đức]] đến [[Palestine]]. Tổng hành dinh của họ sau được dời đến [[Venezia]], rồi [[Transynvania]]<ref>Transynvania: một vùng đất trong lịch sử bao gồm lãnh thổ miền Trung Tây Romania ngày nay.</ref> năm [[1211]] và cuối cùng là đến [[Phổ]] năm [[1299]]. Các ''Hiệp sĩ Giécman'' đã trở thành đội quân tiên phong của [[Đức]] mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo [[biển Baltic]]. Năm [[1525]], trong phong trào cải cách tôn giáo ở [[châu Âu]], ''Albert thành Brandenburg'', một đại địa chủ theo học thuyết của [[Martin Luther]] đã nắm quyền kiểm soát ở đây và giải trừ quyền hành của tầng lớp ''Hiệp sĩ Giécman''.
 
== Dấu ấn của Thập tự chinh ==
Hai lực lượng chính đối đầu nhau trong những cuộc thập tự chinh là những người [[Kitô giáo]] và [[Hồi giáo]] có quan điểm đánh giá rất khác nhau về những cuộc Thập tự chinh. Đối với [[phương Tây]], Thập tự chinh là những cuộc viễn chinh mạo hiểm nhưng anh hùng, những người tham gia thập tự chinh, dù rất nhiều trong số họ đã bỏ mình nơi chiến địa được xem là tiêu biểu cho sự dũng cảm và tinh thần hiệp sĩ. [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] được xem là vị vua ''đắc thủ tất cả những đức tính của một hiệp sĩ kiểu mẫu - gan dạ, thiện chiến, phong độ uy nghi, ngay cả sự nhạy bén để soạn những bài ca trữ tình của giới ca sĩ hát rong.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.348.</ref>. Louis IX, vị vua đã băng hà trong cuộc Thập tự chinh ở [[Tunisia]], với đức tính ngoan đạo, khổ hạnh cũng như công lý mà ông đem lại cho nền quân chủ [[Pháp]] ''thậm chí trong suốt cuộc đời mình, vua Louis đã được xem là bậc thánh.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.354.</ref>. ''Cao lớn, đẹp trai, lịch thiệp và quả cảm, vua Friedrich I Barbarossa, cũng giống như vị vua trước đó là [[Charlemagne]], đã giành được vị trí lâu dài trong ký ức và huyền thoại của thần dân.''<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.357.</ref>. Godfrey xứ [[Bouillon]], với chiến công cùng với một nhóm hiệp sĩ của mình là những người đầu tiên vượt qua tường thành để xâm nhập [[Jerusalem]] và chiếm lại [[Đất Thánh]] trong cuộc vây hãm ở [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]] đã trở thành huyền thoại. Ông được người [[châu Âu]] thời ấy xếp vào một trong số ''Chín biểu tượng của tinh thần hiệp sĩ'' trong mọi thời đại, được ca ngợi trong những bản trường ca, một thể loại vốn phổ biến ở [[Pháp]] thời trung cổ. Cuộc tấn công [[Antioch]] cũng là chủ đề của bản ''Trường ca Antioch'' dài hơn 9.000 câu thơ. Những bài hát của ca sĩ hát rong ở khắp [[châu Âu]] ca ngợi những thủ lĩnh, những hiệp sĩ thập tự chinh và những mối tình lãng mạn của họ.
 
Dấu ấn lịch sử của Thập tự chinh trong thế giới [[Hồi giáo]] không đậm nét bằng ở [[phương Tây]] mặc dù những vị vua [[Hồi giáo]] chống lại người [[Kitô giáo]] như [[Nur ad-Din]],...đặc biệt là [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] cũng rất được ngưỡng mộ và kính trọng. Đối với người [[Hồi giáo]], Thập tự chinh là những sự kiện đầy tàn bạo và dã man và những cuộc chiến đấu của họ chống lại ''Thập tự quân'' được gọi là ''Thánh chiến''.
 
== Ảnh hưởng của Thập tự chinh ==
Mặc dù các cuộc Thập tự chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của [[phương Tây]] tại [[Tiểu Á]] nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa [[phương Đông]] và [[phương Tây]] đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này.
* Kỹ thuật quân sự: sau những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng [[lâu đài]] phát triển. Các [[lâu đài]] có thiết kế [[công sự]] tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném [[gỗ]], [[đá]], dầu... vào những người tấn công; lối vào [[lâu đài]] được bố trí các góc, tường ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các [[lâu đài]] [[Hồi giáo]] cũng có bước phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành như [[máy bắn đá]], [[máy phá {{1000 bài cơ bản}}{{POV}}
{{Thập tự chinh}}
[[Tập tin:1099jerusalem.jpg|nhỏ|phải|300px|[[Jerusalem]] năm 1099]]
Hàng 84 ⟶ 168:
Mặc dù các cuộc Thập tự chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của [[phương Tây]] tại [[Tiểu Á]] nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa [[phương Đông]] và [[phương Tây]] đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này.
* Kỹ thuật quân sự: sau những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng [[lâu đài]] phát triển. Các [[lâu đài]] có thiết kế [[công sự]] tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném [[gỗ]], [[đá]], dầu... vào những người tấn công; lối vào [[lâu đài]] được bố trí các góc, tường ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các [[lâu đài]] [[Hồi giáo]] cũng có bước phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành như [[máy bắn đá]], [[máy phá thành]] bằng những khúc [[gỗ]] lớn...trở nên tinh vi và hiệu quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt [[vật liệu nổ|chất nổ]]...cũng có bước phát triển.
* Kinh tế: mặc dù không có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với [[phương Tây]] do họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của [[phương Tây]] dẫn đến phải áp dụng [[thuế]] ở mức độ cao. Để tài trợ cho [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|Thập tự chinh thứ ba]], năm [[1188]], với sự cho phép của [[Giáo hoàng]], các vương công đã đánh thuế trực thu 10% trên thu nhập của tất cả [[Tu sĩ|tu sỹ]] và người dân có thu nhập gọi là ''Thuế thập phân Saladin''. [[Thuế]] cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa [[phương Đông]] và [[phương Tây]]: các sản phẩm như đường, [[gia vị]],... từ [[phương Đông]] được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển sản xuất ngay tại [[châu Âu]].
* Các cuộc thăm dò: Thập tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người [[phương Tây]] đến những nền văn hóa [[phương Đông]]. Khởi phát là các công quốc có ''Thập tự quân'', các [[tu sỹ]] rồi đến [[thương gia]]; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa [[châu Á]] và đầu thế kỷ XIII đã đến [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của [[Marco Polo]] đã cung cấp cho [[châu Âu]] nguồn thông tin đa dạng và quý báu về [[Đông Á]], tạo tiền đề cho những nhà hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] vào cuối thế kỷ XV và thế kỷ XVI. ''Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng [[Kitô giáo]] là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ nghĩa đế quốc sau này.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 323.</ref>.
* Chính trị:
* Văn hóa:
{{expand}}
===Xem thêm===
* [[Những cuộc xâm lược của người Hồi Giáo]]
== Chú thích ==
{{tham khảo|2}}
 
== Tham khảo ==
* Mortinmer Chambers, Barbara Hanawalt, David Herlihy, Theodore Rabb K., Isser Woloch, Raymond Grew - ''Lịch sử văn minh phương Tây'', Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2004)
* Atwood, Christopher P. (2004). ''The Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire''. Facts on File, Inc. ISBN 0-8160-4671-9.
* [[Carl Erdmann|Erdmann, Carl]], ''The Origin of the Idea of Crusade'', trans. M. W. Baldwin & [[Walter Goffart]], in English (Princeton, 1977). Original work in German, ''Die Enstehung des Kreuzzugsgedanken'', Forschungen zur Kirchen- und Geistesgeschichte 6 (Stuttgart, 1935).
* [http://www.bartleby.com/67/507.html The Encyclopedia of World History. 2001]
* [http://www.thehistorychannel.co.uk/site/features/the_crusades-1.php The Crusades]
 
== Xem thêm ==
* [[Jerusalem]]
* [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]]
 
== Liên kết ngoài ==
{{thể loại Commons|Crusades}}
* [http://www.umich.edu/~eng415/timeline/detailedtimeline.html Biên niên về các cuộc Thập tự chinh (tiếng Anh)]
* E.L. Skip Knox, [http://crusades.boisestate.edu/ The Crusades], a virtual college course through [[Boise State {{1000 bài cơ bản}}{{POV}}
{{Thập tự chinh}}
[[Tập tin:1099jerusalem.jpg|nhỏ|phải|300px|[[Jerusalem]] năm 1099]]
'''Thập tự chinh''' là một loạt các cuộc [[chiến tranh tôn giáo]], được kêu gọi bởi [[Giáo hoàng]] và tiến hành bởi các vị [[vua]] và [[quý tộc]] là những người tình nguyện cầm lấy [[Thánh Giá|cây thập giá]] với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của [[Kitô giáo]] với vùng [[Đất Thánh]]. Quân thập tự đến từ khắp [[Tây Âu]], và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa năm [[1095]] và [[1291]]. Các chiến dịch tương tự ở [[Tây Ban Nha]] và [[Đông Âu]] tiếp tục vào [[thế kỷ XV]]. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người [[Giáo hội Công giáo Rôma]] chống lại người [[Hồi giáo]] và các tín hữu Kitô giáo theo [[Chính Thống giáo Đông phương]] trong [[Byzantium]], với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại [[người Slav]] ngoại giáo, [[Balts]] ngoại giáo, [[Mông Cổ]], và người Kitô giáo ngoại đạo <ref name="OHC" />. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng <ref name="OHC">Riley-Smith, Jonathan. ''The Oxford History of the Crusades'' New York: Oxford University Press, 1999. ISBN 0-19-285364-3.</ref><ref name="TFC">Riley-Smith, Jonathan. ''The First Crusaders, 1095–1131'' Cambridge University Press, 1998. ISBN 0-521-64603-0.</ref>.
 
Các cuộc Thập Tự Chinh ban đầu có mục tiêu thu hồi lại [[Jerusalem]] và Đất Thánh khỏi ách thống trị của Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo [[đế quốc Đông La Mã|đế chế Byzantine]] để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của người [[Thổ Seljuk]] theo đạo Hồi tới [[Tiểu Á|Anatolia]]. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở [[thế kỷ XVI]] ở vùng lãnh thổ bên ngoài [[Levant]] <ref>Như lãnh thổ Hồi giáo ở [[Al-Andalus]], [[Ifriqiya]], và [[Ai Cập]], cũng như ở [[Đông Âu]]</ref>, thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lý do tôn giáo, kinh tế, và chính trị <ref>e.g. the [[Albigensian Crusade]], the [[Aragonese Crusade]], the [[Reconquista]], and the [[Northern Crusades]].</ref>. Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô giáo với [[Vương quốc Hồi giáo của Rûm]] trong cuộc [[Thập Tự Chinh thứ năm]].
 
Các cuộc Thập Tự Chinh đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều tác động từ chính trị, kinh tế và xã hội sâu rộng ở [[châu Âu]]. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc [[Thập Tự Chinh thứ tư]], dẫn đến sự chia cắt của [[Constantinopolis]] Thiên chúa giáo và sự phân vùng của đế chế Byzantine giữa [[Cộng hòa Venice|Venice]] và quân Thập tự. Cuộc [[Thập tự chinh thứ sáu]] là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính thức của Đức Giáo hoàng <ref>{{Chú thích web| họ 1=Halsall | tên 1=Paul | tháng=December | năm=1997 | url=http://www.fordham.edu/halsall/source/1228frederick2.html
| tiêu đề=Philip de Novare: ''Les Gestes des Ciprois'', The Crusade of Frederick II, 1228–29 | work=Medieval Sourcebook | nhà xuất bản=Fordham University
| ngày truy cập = ngày 8 tháng 2 năm 2008}}—"Gregory IX had in fact excommunicated Frederick before he left Sicily the second time"</ref>. Các cuộc [[Thập Tự Chinh thứ bảy]], [[Thập Tự Chinh thứ tám|thứ tám]] và [[Thập Tự Chinh thứ chín|thứ chín]] đã dẫn đến kết quả là chiến thắng của [[Mamluk]] và [[triều đại Hafsid]], như cuộc Thập Tự Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở [[Trung Đông]] <ref>The Gospel in All Lands By Methodist Episcopal Church Missionary Society, Missionary Society, Methodist Episcopal Church, pg. 262</ref>.
 
== Bối cảnh, nguyên nhân, động cơ ==
Khoảng [[thế kỷ VII|thế kỷ thứ VII]], những người đứng đầu [[hồi giáo|đạo Hồi]] tiến hành [[Những cuộc xâm lược của người Hồi Giáo|các cuộc trường chinh xâm chiếm]] các vùng đất mới. Từ năm [[660]] đến năm [[710]], các giáo sĩ [[Hồi giáo]] đã chiếm được một [[lãnh thổ]] rộng lớn ở [[Bắc Phi]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]]. Đến năm [[720]], những kỵ binh [[Hồi giáo]] chiếm [[Tây Ban Nha]] rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ [[Pháp]]; từ năm [[830]] đến năm [[976]] [[Sicilia]] và miền nam [[Ý]] rơi vào tay người [[Hồi giáo]]. Lúc này, những đoàn hành hương của tín đồ [[Kitô giáo]] về các miền [[Đất Thánh]] mà trong đó [[Palestine]] là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ IV và đến thế kỷ XI đã trở nên rất thịnh hành. [[Người Thổ Seljuk]] [[Hồi giáo]] không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng [[Kitô giáo]]{{fact|date = ngày 16 tháng 4 năm 2013}}.
 
Cũng sang thế kỷ XI, [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]] (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở [[châu Âu]]. Lúc này, nguy cơ người [[Hồi giáo]] tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người [[Kitô giáo]] đặc biệt là sau khi quân đội [[Đế quốc Đại Seljuk|Seljuk]] đánh bại quân [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] trong [[trận Manzikert]] năm [[1071]] và bắt được cả hoàng đế [[Romanus IV]] thì con đường tiến về [[Constantinopolis]] đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách [[Constantinopolis]] vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở [[Tiểu Á]], Hoàng đế [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ [[Giáo hoàng]] và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]] và [[Giáo hội Công giáo Rôma]] xảy ra năm [[1054]]. Ngày [[27 tháng 11]] năm [[1095]] tại Hội nghị giám mục, [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] (tại vị 1088-1099) kêu gọi các [[hiệp sĩ]], [[hoàng tử]] [[phương Tây]] và tín đồ [[Kitô giáo]] đến giúp đỡ tín hữu [[Kitô giáo]] [[phương Đông]] đồng thời giành lại những vùng [[Đất Thánh]] đã mất.
 
Mặc dù những cuộc thánh chiến mang đậm màu sắc [[tôn giáo]], nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó còn có các động cơ [[kinh tế]], [[chính trị]], [[xã hội]]:
* Tôn giáo: việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người [[Kitô giáo]] được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước khi [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: ''chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng''.<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 314">Mortimer Chambers,...; Tr. 314.</ref>. Các đạo quân thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ.
* Kinh tế, chính trị: những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số [[châu Âu]] phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người [[Đức]] vào [[phương Đông]] cũng như cuộc xâm chiếm của người [[Tây Ban Nha]]{{fact|date = ngày 16 tháng 4 năm 2013}}. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của [[phương Tây]] với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người [[Đức]] và người [[Tây Ban Nha]] ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp [[hiệp sĩ]] và [[nông dân]] du cư ở [[Palestine]].
* Xã hội: tầng lớp [[hiệp sĩ]] đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số [[châu Âu]] trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành [[chiến tranh]] và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Urbanô II|Urban II]] đã nói với các hiệp sĩ của nước [[Pháp]] như sau: "''Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau.''"<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 314"/> Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó ''các cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời [[Trung Cổ]].''<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 315">Mortimer Chambers,...; Tr. 315.</ref> cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành Clairvaux đã nói: "''Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.''".''<ref name="Mortimer Chambers,...; Tr. 315"/>
 
== Các cuộc Thập tự chinh ==
Về danh sách các cuộc thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể lên đến 9 cuộc tùy quan điểm.
=== Thập tự chinh thứ nhất (1095 - 1099) ===
[[Tập tin:SiegeofAntioch.jpeg|nhỏ|250px|Cuộc bao vây Antioch trong [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]]]]
{{chính|Thập tự chinh thứ nhất}}
Tháng 9 năm [[1095]], [[Giáo hoàng Urbanô II|Giáo hoàng Urban II]] đã có một bài thuyết giảng tại [[Clermont]], miền nam nước [[Pháp]] kêu gọi giới [[quý tộc]] đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội [[phương Tây]] và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của [[nông dân]] và người nghèo ở miền bắc [[Pháp]] và châu thổ [[rhine|sông Rhine]] cùng với một số [[hiệp sĩ]] và [[Tu sĩ|tu sỹ]] vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người [[Do Thái]], từ Cologne (Đức) vượt qua [[Bulgaria]], [[Hungary]] rồi kéo đến [[Constantinopolis|Constantinople]]. Sau khi được hoàng đế [[Alexios I]] của [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] đưa qua eo [[Bosporus|Bosphorus]], họ nhanh chóng bị quân đội [[Thổ Nhĩ Kỳ]] đánh tan.
 
Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: [[Robert xứ Normandy]] (con trai của [[William I của Anh|William the Conqueror]]); [[Godfrey xứ Bouillon]] cùng hai anh trai là [[Baldwin xứ Boulogne]] và [[Robert xứ Flanders]]; [[Raymon IV xứ Toulouse]]; [[Bohemond I xứ Antioch]], [[Tancred xứ Taranto]],... Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến [[Constantinopolis|Constantinople]] năm [[1096]] và [[1097]] để từ đó tấn công [[nhà Seljuk ở Rum]]. Cuối tháng 4 năm [[1097]], đội quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của [[nhà Seljuk ở Rum|người Seljuk]] và giành được thắng lợi đầu tiên trong [[trận Dorylaeum]]<ref>Dorylaeum: một thành phố cổ thuộc [[Tiểu Á]], phế tích của nó ở gần thành phố Eskisehir ngày nay.</ref> ngày [[1 tháng 7]] năm [[1097]]. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng [[Antioch]]<ref>Antioch: một thành phố cổ ở địa điểm nay là thành phố Antakya, Thổ Nhĩ Kỳ.</ref> và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về [[Jerusalem]]. Ngày [[7 tháng 6]] năm [[1099]], ''Thập tự quân'' tới [[Jerusalem]] và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày [[15 tháng 7]] năm [[1099]], thập tự quân đột kích chiếm [[Jerusalem]] và tàn sát các tín đồ [[Hồi giáo]], [[Do Thái giáo]] cũng như cả [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]]<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 317.</ref>. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến [[Antiochia]] và [[Jerusalem]] thì [[Baldwin xứ Boulogne]] tách đội quân của mình ra để chiếm [[Edessa]]<ref>Edessa: thành phố cổ phía nam Thổ Nhĩ Kỳ, ở vị trí nay là Sanliurfa (Urfa)</ref>, nơi ông thiết lập ''Công quốc thập tự quân'' đầu tiên ở [[phương Đông]]. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của [[Venezia|Venice]] và [[Genova|Genoa]], Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông [[Địa Trung Hải]] và thiết lập bá quốc Tripoli và một số tiểu quốc khác.
 
Kết quả của [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]] là đã lập ra một loạt những ''Công quốc Thập tự quân'': [[Edessa]], [[Antioch]], [[Tripoli]]... và đặc biệt là [[Jerusalem]] trải rộng trên khắp vùng [[Cận Đông]].
 
=== Thập tự chinh thứ hai (1147 - 1149) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ hai}}
Năm [[1144]], việc quân [[Hồi giáo]] tái chiếm [[Edessa]] và uy hiếp [[Jerusalem]] đã dẫn đến cuộc [[thập tự chinh thứ hai]] do [[Giáo hoàng Êugêniô III|Bernard thành Clairvaux]] tích cực phát động. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua [[Louis VII của Pháp]], một do vua [[Konrad III (Hohenstaufen)]] của [[Đức]] chỉ huy lên đường chiếm [[Damas]]cus ([[Syria]]) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho [[Jerusalem]]. Cuộc đột chiếm [[Damas]]cus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua [[Nur ad-Din Zangi]], vị tiểu vương [[Hồi giáo]] đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của [[Damas]]cus. Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân [[Bắc Âu]] dừng lại ở [[Lisboa]] và cùng với người [[Bồ Đào Nha]] chiếm lại thành phố này từ người [[Hồi giáo]].
 
=== Thập tự chinh thứ ba (1189 - 1192) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ ba}}
[[Tập tin:RichardSaladin.jpg|nhỏ|350px|Hình được cho là vẽ Richard Sư tử tâm và Saladin]]
Sau khi [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] chiếm được [[Ai Cập]], trở thành [[Sultan]] ở đây và thống nhất các tín đồ [[Hồi giáo]], [[Syria]] bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người [[Kitô giáo]] có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm [[1187]], [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] đánh bại quân Thập tự và chiếm lại [[Jerusalem]] nên nguy cơ công quốc thập tự quân này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế [[Friedrich I của Đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich I Barbarossa]] của [[đế quốc La Mã Thần thánh|đế quốc La Mã thần thánh]], vua [[Philippe II của Pháp|Philippe II Auguste]] của [[Pháp]] cùng vua [[Richard I của Anh|Richard I Sư tử tâm]] của [[Anh]] đồng loạt tiến quân về [[phương Đông]], tiến hành cuộc [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|Thập tự chinh thứ ba]]. Ngày [[10 tháng 6]] năm [[1190]], Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ [[Tiểu Á]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] và [[Philippe II của Pháp|Philippe II Auguste]] đã vây hãm và chiếm được [[Acre (Israel)|Acre]]<ref>Acre: một thành phố cảng nằm ven vịnh Haifa, Israel.</ref>, đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở [[Tây Âu]]. Mặc dù vậy, [[cuộc thập tự chinh thứ ba|thập tự chinh thứ ba]] kết thúc trong bế tắc, Richard phải ký hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc [[Jerusalem]] vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ [[Acre, Israel|Acre]] đến [[Jaffa]] và việc người [[Kitô giáo]] hành hương được quyền viếng thăm [[Jerusalem]] trong 3 năm là kết quả của cuộc viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm [[1192]], con tàu của [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] bị hỏng ở [[Aquileia]] ([[Ý]]), ngay trước [[Lễ Giáng Sinh|Giáng Sinh]] năm ấy, ông bị [[Nước Đức thời Trung cổ#Heinrich VI. v.C3.A0 cu.E1.BB.99c chi.E1.BA.BFn gi.C3.A0nh ngai v.C3.A0ng|Leopold V (Công tước Áo)]] bắt giữ rồi trao cho hoàng đế [[Nước Đức thời Trung cổ#Heinrich VI. v.C3.A0 cu.E1.BB.99c chi.E1.BA.BFn gi.C3.A0nh ngai v.C3.A0ng|Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh)]]. [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] bị cầm tù cho đến [[4 tháng 2]] năm [[1194]] mới được giải phóng sau khi đã trả tiền chuộc.
 
=== Thập tự chinh thứ tư (1202 - 1204) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ tư}}
[[Tập tin:ConquestOfConstantinopleByTheCrusadersIn1204.jpg|nhỏ|Quân Thập tự chinh đánh chiếm Constantinople vào năm 1204]]
Cuộc [[Thập tự chinh thứ tư]] bắt đầu năm [[1202]] do [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Innôcentê III|Innocent III]] phát động với mục tiêu chiếm [[Ai Cập]] để từ đó tấn công [[Jerusalem]]. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với [[Venezia]] nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang [[Ai Cập]], để đổi lại, người [[Venezia]] sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc <ref>Dịch giả: Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hằng, Trần Văn La. Lịch sử thế giới trung đại. Trang 54. Nhà xuất bản giáo dục.2006.</ref>. Sau đó, [[Venezia]] đề nghị đội quân thập tự chinh đánh chiếm [[Zara]], địch thủ thương nghiệp của Venezia <ref>Zara: một thành phố thuộc Croatia ngày nay, nằm ven biển Adriatic.</ref>, một thành phố cũng của người [[Kitô giáo]]. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm [[Zara]] vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người [[Venezia]] lại thuyết phục thập tự quân tấn công [[Constantinopolis|Constantinople]], thủ đô của [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]] theo [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]]. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày [[12 tháng 4]] năm [[1204]]. ''Mặc dù [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Innôcentê III|Innocent III]] cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố''<ref>Mortimer Chambers,..; Tr. 321.</ref>. Sau đó người [[Venezia]] và ''Thập tự quân'' phân chia [[đế quốc Đông La Mã|đế quốc Byzantine]] thành các công quốc và thống trị cho đến năm [[1261]]. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà ''Thập tự quân'' không tiếp tục tiến về [[Đất Thánh]].
 
=== Thập tự chinh thứ năm (1217 - 1219) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ năm}}
[[Thập tự chinh thứ năm]] do [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Hônôriô III|Honorius III]] tổ chức, ''Thập tự quân'' năm [[1217]] gồm các đạo quân do [[Leopold VI (Công tước Áo)]] và [[András II của Hungary]] dẫn đầu, đến năm [[1218]], quân đội của ''Oliver thành Cologne'' và một đội quân hỗn hợp của vua [[Hà Lan]] [[Willem I của Hàn Lan|Willem I]] cũng tham gia. Mục tiêu của ''Thập tự quân'' lần này là tấn công [[Ai Cập]]. Năm [[1218]], ''John thành Brienne'', vua [[Jerusalem]] bị thay thế. Năm [[1219]], ''Thập tư quân'' công chiếm [[Damietta]]<ref>Damietta: thành phố cảng ở Ai Cập, cách Cairo 200 km về phía bắc.</ref> và [[Giáo hoàng]] cử đại diện là Pelagius<ref>Pelagus: tên thật là Pelagio Galvani (? - 1230), Hồng y người Tây Ban Nha.</ref> thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người [[Hồi giáo]] đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và [[Jerusalem]] nhưng Pelagius từ chối. Năm [[1219]], ''Thập tự quân'' định tấn công [[Cairo]] nhưng không vượt qua được [[sông Nin]] đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội [[Hồi giáo]] đã gây nhiều thiệt hại cho ''Thập tự quân'' và Damietta bị tái chiếm.
 
=== Thập tự chinh thứ sáu (1228 - 1229)<ref>Có tài liệu không coi đây là một cuộc Thập tự chinh riêng rẽ mà ghép nó vào cuộc Thập tự chinh thứ năm</ref> ===
{{chính|Thập tự chinh thứ sáu}}
Đoàn quân do hoàng đế [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh)]] đứng đầu tiến hành [[Thập tự chinh thứ sáu]] năm [[1228]] nhưng nhanh chóng quay trở về và [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich II]] đã bị [[Giáo hoàng]] rút phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm [[1229]] ông đạt được với người [[Hồi giáo]] một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát [[Jerusalem]], [[Nazareth]] và [[Bethlehem]] cùng với một hành lang từ [[Jerusalem]] ra biển cho những người [[Kitô giáo]]. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở [[Jerusalem]], Friedrich II đã tự phong mình làm vua ở đây năm [[1229]]. Năm [[1244]], [[Jerusalem]] thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê [[Hồi giáo]] và người [[Kitô giáo]] chỉ trở lại kiểm soát được thành phố này vào năm [[1917]].
 
=== Thập tự chinh thứ bảy (1248 - 1254) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ bảy}}
Sau khi [[Jerusalem]] bị chiếm, vua [[Pháp]] [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm [[1247]], mục tiêu lần này vẫn là [[Ai Cập]]. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm [[1248]], ông vẫn chiếm được [[Damietta]] một cách dễ dàng và tiến quân về [[Cairo]] năm [[1249]]. Tuy nhiên, ''Thập tự quân'' nhanh chóng bị quân [[Hồi giáo]] của [[Baybars I]] và ''Emir Fakr ed-Din'' đánh bại trong [[trận Mansoura]]<ref>Mansoura hay El Mansurah: một thành phố trong vùng châu thổ sông Nin, cách Cairo 120 km về phía đông bắc.</ref> ngày [[8 tháng 2]] năm [[1250]], Damietta lại rơi vào tay người [[Hồi giáo]]. Vua [[Louis IX của Pháp]] bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc.
 
=== Thập tự chinh thứ tám (1270) ===
{{chính|Thập tự chinh thứ tám}}
[[Tập tin:PriseDeConstantinople1204PalmaLeJeune.JPG|nhỏ|trái|150px|Chiếm [[Constantinopolis|Constantinople]] năm 1204]]
Các sự kiện [[Jaffa]] và [[Antioch]] bị người [[Hồi giáo]] chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do [[Louis IX của Pháp|Vua Louis IX]] tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến [[Tunisia]], ''Thập tự quân'' tấn công [[Tunis]] nhưng ngày [[25 tháng 8]] năm [[1270]], [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] chết ở gần [[Tunis]] vì [[dịch hạch|bệnh dịch hạch]]. Sau đó đội quân của [[Louis IX của Pháp|Louis IX]] cùng với đoàn ''Thập tự quân'' do hoàng tử [[Anh]] [[Edward I của Anh|Edward]] tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không đạt kết quả nào. Cuộc tấn công [[Tunis]] ngừng lại còn hoàng tử Edward dẫn quân tới [[Acre, Israel|Acre]]. Những hoạt động của đội quân do hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm [[1271]] - [[1272]] có tài liệu gọi là [[Thập tự chinh thứ chín]], có tài liệu lại ghép vào cùng với [[Thập tự chinh thứ tám]]. Trong hai năm này, hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến khi ông đình chiến và quay trở về [[Anh]] để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà vua [[Henry III của Anh|Henry III]]. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người [[Kitô giáo]] tới miền [[Đất Thánh]]. Năm [[1289]], [[Tripoli]] bị người [[Hồi giáo]] chiếm và tới năm [[1291]], khi [[Cuộc vây hãm Acre (1291)|Acre]] cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời trung cổ kết thúc.
 
=== Thập tự chinh thứ chín 1271–1272 ===
{{chính|Thập tự chinh thứ chín}}
 
=== Thập tự chinh phía Bắc (Baltic và Đức) ===
=== Các cuộc thập tự chinh khác ===
Ngoài những cuộc thập tự chinh tới miền [[Đất Thánh]], một số hoạt động quân sự khác trong giai đoạn này cũng được gọi là Thập tự chinh như: chiến dịch quân sự chống lại giáo phái Albi ở vùng [[Languedoc-Roussillon|Languedoc]], [[Pháp]] từ năm [[1209]] đến năm [[1229]]; sự kiện thực hư lẫn lộn xảy ra năm [[1212]] khi hàng loạt trẻ em kéo tới [[Ý]] được gọi là [[Thập tự chinh của trẻ em]]; hay các hoạt động quân sự chống lại người [[Tarta]], những cuộc hành binh đến [[Thụy Điển]], vùng [[Balkan]]... cũng được coi là Thập tự chinh.
 
== Các hiệp sĩ tham gia thập tự chinh ==
 
Ngay sau cuộc [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]], các [[hiệp sĩ]] đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh, bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều [[phương Tây]] cũng như đóng vai trò quan trọng trong xã hội [[châu Âu]] thời kỳ đó.
* ''[[Hiệp sĩ dòng Đền]]'' (hay ''Hiệp sĩ Đền thờ''; [[Tiếng Pháp]]: Ordre du Temple) do các hiệp sĩ [[Pháp]] thành lập đầu thế kỷ XII. Họ sống chung với nhau trong các khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ [[Công quốc Jerusalem]], đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối [[tây Âu]] với các ''Công quốc Thập tự quân''. Các ''Hiệp sĩ Đền thờ'' cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy ''trở thành thể chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại''<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 321.</ref>. Năm [[1321]], các hoạt động của ''Hiệp sĩ Đền thờ'' bị [[Giáo hoàng]] ra lệnh cấm.
* ''[[Hiệp sĩ Cứu tế|Hiệp sĩ Cứu tế Thánh Gioan]]'' hay gọi ngắn gọn là ''Hiệp sĩ Cứu tế'' ([[Tiếng Anh|Anh ngữ]]:Knights Hospitaller): do các hiệp sĩ ở [[Jerusalem]] thành lập vào khoảng năm [[1103]]. Tuy quân số không đông bằng ''Hiệp sĩ Đền thờ'' nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm [[1291]], sau khi thành [[Acre (Israel)|Acre]] thất thủ, tổng hành dinh của ''Hiệp sĩ Cứu tế'' dời đến [[Cộng hòa Síp]] rồi sau đó đến đảo [[Rhodes]] và cuối cùng là đảo [[Malta]]. Cùng với các hiệp sĩ ở [[Malta]], họ cai trị hòn đảo này cho đến năm [[1798]] khi [[Napoléon Bonaparte]] chiếm [[Malta]] trên con đường chinh phục [[Ai Cập]]. Các hiệp sĩ trở thành ''Giai cấp tối cao'' (sovereign order) ở [[Malta]] và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công việc bác ái.
* ''[[Hiệp sĩ Teuton|Hiệp sĩ Giéc-man]]'' (tiếng Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm [[1190]] ở [[Acre, Israel|Acre]] để bảo vệ các đoàn hành hương người [[Đức]] đến [[Palestine]]. Tổng hành dinh của họ sau được dời đến [[Venezia]], rồi [[Transynvania]]<ref>Transynvania: một vùng đất trong lịch sử bao gồm lãnh thổ miền Trung Tây Romania ngày nay.</ref> năm [[1211]] và cuối cùng là đến [[Phổ]] năm [[1299]]. Các ''Hiệp sĩ Giécman'' đã trở thành đội quân tiên phong của [[Đức]] mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo [[biển Baltic]]. Năm [[1525]], trong phong trào cải cách tôn giáo ở [[châu Âu]], ''Albert thành Brandenburg'', một đại địa chủ theo học thuyết của [[Martin Luther]] đã nắm quyền kiểm soát ở đây và giải trừ quyền hành của tầng lớp ''Hiệp sĩ Giécman''.
 
== Dấu ấn của Thập tự chinh ==
Hai lực lượng chính đối đầu nhau trong những cuộc thập tự chinh là những người [[Kitô giáo]] và [[Hồi giáo]] có quan điểm đánh giá rất khác nhau về những cuộc Thập tự chinh. Đối với [[phương Tây]], Thập tự chinh là những cuộc viễn chinh mạo hiểm nhưng anh hùng, những người tham gia thập tự chinh, dù rất nhiều trong số họ đã bỏ mình nơi chiến địa được xem là tiêu biểu cho sự dũng cảm và tinh thần hiệp sĩ. [[Richard I của Anh|Richard Sư tử tâm]] được xem là vị vua ''đắc thủ tất cả những đức tính của một hiệp sĩ kiểu mẫu - gan dạ, thiện chiến, phong độ uy nghi, ngay cả sự nhạy bén để soạn những bài ca trữ tình của giới ca sĩ hát rong.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.348.</ref>. Louis IX, vị vua đã băng hà trong cuộc Thập tự chinh ở [[Tunisia]], với đức tính ngoan đạo, khổ hạnh cũng như công lý mà ông đem lại cho nền quân chủ [[Pháp]] ''thậm chí trong suốt cuộc đời mình, vua Louis đã được xem là bậc thánh.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.354.</ref>. ''Cao lớn, đẹp trai, lịch thiệp và quả cảm, vua Friedrich I Barbarossa, cũng giống như vị vua trước đó là [[Charlemagne]], đã giành được vị trí lâu dài trong ký ức và huyền thoại của thần dân.''<ref>Mortimer Chambers,...; Tr.357.</ref>. Godfrey xứ [[Bouillon]], với chiến công cùng với một nhóm hiệp sĩ của mình là những người đầu tiên vượt qua tường thành để xâm nhập [[Jerusalem]] và chiếm lại [[Đất Thánh]] trong cuộc vây hãm ở [[Cuộc thập tự chinh thứ nhất|Thập tự chinh thứ nhất]] đã trở thành huyền thoại. Ông được người [[châu Âu]] thời ấy xếp vào một trong số ''Chín biểu tượng của tinh thần hiệp sĩ'' trong mọi thời đại, được ca ngợi trong những bản trường ca, một thể loại vốn phổ biến ở [[Pháp]] thời trung cổ. Cuộc tấn công [[Antioch]] cũng là chủ đề của bản ''Trường ca Antioch'' dài hơn 9.000 câu thơ. Những bài hát của ca sĩ hát rong ở khắp [[châu Âu]] ca ngợi những thủ lĩnh, những hiệp sĩ thập tự chinh và những mối tình lãng mạn của họ.
 
Dấu ấn lịch sử của Thập tự chinh trong thế giới [[Hồi giáo]] không đậm nét bằng ở [[phương Tây]] mặc dù những vị vua [[Hồi giáo]] chống lại người [[Kitô giáo]] như [[Nur ad-Din]],...đặc biệt là [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] cũng rất được ngưỡng mộ và kính trọng. Đối với người [[Hồi giáo]], Thập tự chinh là những sự kiện đầy tàn bạo và dã man và những cuộc chiến đấu của họ chống lại ''Thập tự quân'' được gọi là ''Thánh chiến''.
 
== Ảnh hưởng của Thập tự chinh ==
Mặc dù các cuộc Thập tự chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của [[phương Tây]] tại [[Tiểu Á]] nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa [[phương Đông]] và [[phương Tây]] đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này.
* Kỹ thuật quân sự: sau những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng [[lâu đài]] phát triển. Các [[lâu đài]] có thiết kế [[công sự]] tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném [[gỗ]], [[đá]], dầu... vào những người tấn công; lối vào [[lâu đài]] được bố trí các góc, tường ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các [[lâu đài]] [[Hồi giáo]] cũng có bước phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành như [[máy bắn đá]], [[máy phá thành]] bằng những khúc [[gỗ]] lớn...trở nên tinh vi và hiệu quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt [[vật liệu nổ|chất nổ]]...cũng có bước phát triển.
* Kinh tế: mặc dù không có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với [[phương Tây]] do họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của [[phương Tây]] dẫn đến phải áp dụng [[thuế]] ở mức độ cao. Để tài trợ cho [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|Thập tự chinh thứ ba]], năm [[1188]], với sự cho phép của [[Giáo hoàng]], các vương công đã đánh thuế trực thu 10% trên thu nhập của tất cả [[Tu sĩ|tu sỹ]] và người dân có thu nhập gọi là ''Thuế thập phân Saladin''. [[Thuế]] cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa [[phương Đông]] và [[phương Tây]]: các sản phẩm như đường, [[gia vị]],... từ [[phương Đông]] được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển sản xuất ngay tại [[châu Âu]].
* Các cuộc thăm dò: Thập tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người [[phương Tây]] đến những nền văn hóa [[phương Đông]]. Khởi phát là các công quốc có ''Thập tự quân'', các [[tu sỹ]] rồi đến [[thương gia]]; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa [[châu Á]] và đầu thế kỷ XIII đã đến [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của [[Marco Polo]] đã cung cấp cho [[châu Âu]] nguồn thông tin đa dạng và quý báu về [[Đông Á]], tạo tiền đề cho những nhà hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] vào cuối thế kỷ XV và thế kỷ XVI. ''Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng [[Kitô giáo]] là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ nghĩa đế quốc sau này.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 323.</ref>.
* Chính trị:
* Văn hóa:
{{expand}}
===Xem thêm===
* [[Những cuộc xâm lược của người Hồi Giáo]]
== Chú thích ==
{{tham khảo|2}}
 
== Tham khảo ==
* Mortinmer Chambers, Barbara Hanawalt, David Herlihy, Theodore Rabb K., Isser Woloch, Raymond Grew - ''Lịch sử văn minh phương Tây'', Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2004)
* Atwood, Christopher P. (2004). ''The Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire''. Facts on File, Inc. ISBN 0-8160-4671-9.
* [[Carl Erdmann|Erdmann, Carl]], ''The Origin of the Idea of Crusade'', trans. M. W. Baldwin & [[Walter Goffart]], in English (Princeton, 1977). Original work in German, ''Die Enstehung des Kreuzzugsgedanken'', Forschungen zur Kirchen- und Geistesgeschichte 6 (Stuttgart, 1935).
* [http://www.bartleby.com/67/507.html The Encyclopedia of World History. 2001]
* [http://www.thehistorychannel.co.uk/site/features/the_crusades-1.php The Crusades]
 
== Xem thêm ==
* [[Jerusalem]]
* [[Đế quốc Đông La Mã|Đế quốc Byzantine]]
 
== Liên kết ngoài ==
{{thể loại Commons|Crusades}}
* [http://www.umich.edu/~eng415/timeline/detailedtimeline.html Biên niên về các cuộc Thập tự chinh (tiếng Anh)]
* E.L. Skip Knox, [http://crusades.boisestate.edu/ The Crusades], a virtual college course through [[Boise State University]].
* [http://www.the-orb.net/encyclop/religion/crusades/crusade.html Crusades: A Guide to Online Resources], Paul Crawford, 1999.
* [http://www.staff.u-szeged.hu/~capitul/sscle/ The Society for the Study of the Crusades and the Latin East]—an international organization of professional Crusade scholars
* [http://www.deremilitari.org De Re Militari: The Society for Medieval Military History]—contains articles and primary sources related to the Crusades
* [http://www.dinur.org/resources/resourceCategoryDisplay.aspx?categoryid=453&rsid=478 Resources &gt; Medieval Jewish History &gt; The Crusades] The Jewish History Resource Center - Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The [[Hebrew University of Jerusalem]]
* [http://www.crusades-encyclopedia.com/index.html The Crusades Encyclopedia] - articles, primary and secondary sources, and bibliographies
* [http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=952797 An Islamic View of the Battlefield] an article that provides indepth analysis of the theological basis of human wars
* ''[http://digital.library.wisc.edu/1711.dl/History.HistCrusades A History of the Crusades]''
* [http://www.amazon.com/Crusades-Terry-Jones/dp/B00005U8F3/ref=sr_1_1?ie=UTF8&s=dvd&qid=1260494133&sr=8-1 A History Of The Crusades] by [[Terry Jones]]
* [[Wikia:crusades:Main Page|The Crusades Wiki]]
{{Lịch sử châu Âu}}
 
[[Thể loại:Chiến tranh]]
[[Thể loại:Chiến tranh tôn giáo]]
[[Thể loại:Thập tự chinh| ]]
[[Thể loại:Jerusalem]]
[[Thể loại:Chiến tranh thời Trung cổ]]m]].
* [http://www.the-orb.net/encyclop/religion/crusades/crusade.html Crusades: A Guide to Online Resources], Paul Crawford, 1999.
* [http://www.staff.u-szeged.hu/~capitul/sscle/ The Society for the Study of the Crusades and the Latin East]—an international organization of professional Crusade scholars
* [http://www.deremilitari.org De Re Militari: The Society for Medieval Military History]—contains articles and primary sources related to the Crusades
* [http://www.dinur.org/resources/resourceCategoryDisplay.aspx?categoryid=453&rsid=478 Resources &gt; Medieval Jewish History &gt; The Crusades] The Jewish History Resource Center - Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The [[Hebrew University of Jerusalem]]
* [http://www.crusades-encyclopedia.com/index.html The Crusades Encyclopedia] - articles, primary and secondary sources, and bibliographies
* [http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=952797 An Islamic View of the Battlefield] an article that provides indepth analysis of the theological basis of human wars
* ''[http://digital.library.wisc.edu/1711.dl/History.HistCrusades A History of the Crusades]''
* [http://www.amazon.com/Crusades-Terry-Jones/dp/B00005U8F3/ref=sr_1_1?ie=UTF8&s=dvd&qid=1260494133&sr=8-1 A History Of The Crusades] by [[Terry Jones]]
* [[Wikia:crusades:Main Page|The Crusades Wiki]]
{{Lịch sử châu Âu}}
 
[[Thể loại:Chiến tranh]]
[[Thể loại:Chiến tranh tôn giáo]]
[[Thể loại:Thập tự chinh| ]]
[[Thể loại:Jerusalem]]
[[Thể loại:Chiến tranh thời Trung cổ]]]] bằng những khúc [[gỗ]] lớn...trở nên tinh vi và hiệu quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt [[vật liệu nổ|chất nổ]]...cũng có bước phát triển.
* Kinh tế: mặc dù không có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với [[phương Tây]] do họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của [[phương Tây]] dẫn đến phải áp dụng [[thuế]] ở mức độ cao. Để tài trợ cho [[Cuộc thập tự chinh thứ ba|Thập tự chinh thứ ba]], năm [[1188]], với sự cho phép của [[Giáo hoàng]], các vương công đã đánh thuế trực thu 10% trên thu nhập của tất cả [[Tu sĩ|tu sỹ]] và người dân có thu nhập gọi là ''Thuế thập phân Saladin''. [[Thuế]] cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa [[phương Đông]] và [[phương Tây]]: các sản phẩm như đường, [[gia vị]],... từ [[phương Đông]] được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển sản xuất ngay tại [[châu Âu]].
* Các cuộc thăm dò: Thập tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người [[phương Tây]] đến những nền văn hóa [[phương Đông]]. Khởi phát là các công quốc có ''Thập tự quân'', các [[tu sỹ]] rồi đến [[thương gia]]; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa [[châu Á]] và đầu thế kỷ XIII đã đến [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của [[Marco Polo]] đã cung cấp cho [[châu Âu]] nguồn thông tin đa dạng và quý báu về [[Đông Á]], tạo tiền đề cho những nhà hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] vào cuối thế kỷ XV và thế kỷ XVI. ''Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng [[Kitô giáo]] là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ nghĩa đế quốc sau này.<ref>Mortimer Chambers,...; Tr. 323.</ref>.