Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nước công nghiệp mới”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Newly industrialized countries 2013.svg|thumb|450px|Các nước công nghiệp mới {{tính đến|2013|lc=on}}.]]
 
'''Nước công nghiệp mới''' (''Newly Industrialized Country'' - NIC) là từnhững ngữ[[quốc kinhgia]] tế-xãđã hộihoàn sửthành dụngquá bởitrình các[[công nhànghiệp kinh tếhóa]], trên luận[[thế chínhgiới]] trịhiện đểnay, chỉnhóm mộtnày đứng trên các [[quốcnước giađang phát triển]] mớinhưng côngxếp nghiệpsau hóacác trên[[Nước thếcông giớinghiệp|nước phát triển]].
 
Đây là các quốc gia chưa đạt được trình độ tiến bộ kinh tế xã hội cao như các nước thuộc [[thế giới thứ nhất]] nhưng có sự phát triển vượt trội so với các nước đang phát triển thuộc [[thế giới thứ ba]]. Một đặc điểm của các nước công nghiệp mới (NIC) là có tốc độ tăng trưởng cao (thường là hướng về [[xuất khẩu]]). [[Công nghiệp hóa|Quá trình công nghiệp hóa]] nhanh chóng là một chỉ số quan trọng để trở thành một nước công nghiệp mới. Ở nhiều quốc gia thuộc NIC, đảo lộn xã hội có thể xảy ra đặc biệt là ở khu vực nông thôn; như dân cư nông nghiệp di cư ra các thành thị kiếm việc làm, nơi sự đi lên của lĩnh vực chế tạo cần rất nhiều lao động.
 
Các NIC thường mang đặc điểm chung là:
Dòng 16:
 
==Nguồn gốc thuật ngữ==
Từ ngữ ''các nước công nghiệp mới'' bắt đầu được sử dụng ở [[thập niên 1970]] khi "[[Bốn con hổ châu Á|'''Bốn con Hổ châu Á''']]" là [[Hồng Kông]] (khi đó còn là [[thuộc địa]] của [[Anh]]), [[Hàn Quốc]], [[Singapore]] và [[Đài Loan]] nổi lên với sự tăng trưởng ngoạn mục từ [[thập niên 1960]]. Thuật ngữ ''"các nước công nghiệp mới"'' được dùng để chỉ các quốc gia trên trong giai đoạn đó. Ngày nay, các nước quốc gia và vùng lãnh thổ này đã vượt qua giai đoạn công nghiệp hóa, và "NIC" được dùng chỉ các nước tiếp bước con đường thành công của họ.
 
Bốn con hổ châu Á giờ đây đã đạt trình độ tương đương các [[nước công nghiệp|nước phát triển]] với tiến trình cởi mở chính trị, [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]] trên đầu người cao, và chính sách kinh tế mạnh mẽ, hướng về xuất khẩu. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có [[chỉ số phát triển con người]] (HDI) ở mức hơn 90% chỉ số trung bình của [[Liên minh châu Âu]], đặc biệt, riêng [[Hàn Quốc]] còn là thành viên của [[Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế]] (OECD), [[Câu lạc bộ Paris]] và [[G20 (nhóm các nền kinh tế lớn)|Nhóm các nền kinh tế lớn]] (G20).
 
Đôi khi "Bốn con hổ châu Á" được gọi là các nước công nghiệp mới thế hệ thứ nhất để phân biệt với các nước công nghiệp hóa đi sau.
 
==Các nước công nghiệp mới hiện nay==
Bảng sau liệt kê danh sách các quốc gia, vùng lãnh thổ được coi là các nước mà theo quan điểm của một số tác giả và chuyên gia khác nhau thì là nước công nghiệp mới.:<ref name=Globalization>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=iuHsIuez5qoC|title=Globalization and the Transformation of Foreign Economic Policy|author=Paweł Bożyk|chapter=Newly Industrialized Countries|page=164|publisher=Ashgate Publishing, Ltd|year=2006|isbn=0-7546-4638-6}}</ref><ref name=Limits>{{chú thích sách|title=The Limits of Convergence|author=Mauro F. Guillén|chapter=Multinationals, Ideology, and Organized Labor|pages=126 (Table 5.1)|publisher=Princeton University Press|year=2003|isbn=0-691-11633-4}}</ref><ref name=AIA>{{chú thích sách|title=Geography, An Integrated Approach|author=David Waugh|chapter=Manufacturing industries (chapter 19), World development (chapter 22)|pages=563, 576–579, 633, and 640|publisher=Nelson Thornes Ltd.|year=3rd edition 2000|isbn=0-17-444706-X}}</ref><ref name=Principles>{{chú thích sách|title=Principles of Economics|author=N. Gregory Mankiw|year=4th Edition 2007|isbn=0-324-22472-9}}</ref>
{| class="wikitable"
|-