Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tâm lý học”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
n clean, replaced: " → " (72), " → " (91) |
||
Dòng 2:
{{Thanh bên tâm lý học}}
'''Tâm lý học''' là ngành khoa học nghiên cứu về [[tâm trí]] và [[hành vi]]<ref name=APA>{{Chú thích web|tiêu đề=How does the APA define
<!-- Quy mô nghiên cứu bao gồm y học và khoa học xã hội -->
Dòng 11:
<!--Đối tượng và phương pháp:-->
Nhà tâm lý học khám phá các quy trình tâm thần và hành vi, bao gồm những khái niệm như [[tri giác]], [[nhận thức]], [[chú ý]], [[cảm xúc]], [[Trí thông minh|trí tuệ]], [[trải nghiệm chủ quan]], [[Động cơ hành động|động cơ]], [[chức năng não]], và [[Tâm lý học nhân cách|nhân cách]]; mở rộng ra những lĩnh vực về giao tiếp con người như [[mối quan hệ cá nhân]], bao gồm [[bình tâm năng]], [[gia tâm năng]] và những khái niệm có liên quan khác. Các trạng thái và hoạt động của tâm trí [[vô thức]] cũng được nghiên cứu và xem xét trong tâm lý học.<ref name="reference_name_A">Mặc dù việc [[phân tích tâm lý]] và những hình thái khác của tâm lý học chuyên sâu thường có liên quan nhiều nhất đến tâm vô thức, những nhà nghiên cứu hành vi xem xét những hiện tượng như [[phản xạ có điều kiện]] và [[phản xạ theo hình thức thưởng phạt]] (''operant conditioning''), trong khi những nhà nhận thức học tập trung nghiên cứu những vấn đề như [[bộ nhớ tiềm ẩn]], [[tính tự động]], và [[thông điệp ngầm]], tất cả những thứ đó đều được hiểu là để bỏ qua hoặc xảy ra bên ngoài nỗ lực nhận thức hay sự chú ý. Đương nhiên, những nhà [[nhận thức-hành vi (tâm lý) trị liệu]] tư vấn cho những bệnh nhân của họ để trở nên đề phòng với những hình thái [[suy nghĩ kém tương thích]] (''maladaptive thought patterns), tính tự nhiên của cái mà trước đó những bệnh nhân này chưa hề ý thức.''</ref> Nhà tâm lý học sử dụng [[nghiên cứu thực nghiệm|các phương thức nghiên cứu kinh nghiệm]] để diễn giải mối quan hệ [[Quan hệ nhân quả|nhân quả]] và [[tương quan]] giữa những yếu tố tâm lý - xã hội. Ngoài việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm và [[Suy diễn logic|suy diễn]], một số nhà tâm lý học - nhất là các nhà tâm lý học lâm sàng và tham vấn ''-'' đôi khi cũng dựa vào [[thông diễn học]] và các phương pháp [[Lập luận quy nạp|quy nạp]] khác. Tâm lý học được miêu tả như một ngành
<!--Phạm vi ứng dụng:-->
Dòng 20:
== Từ nguyên và định nghĩa ==
<!-- Từ nguyên cổ đại -->
Từ ''psychology'' ("[[wikt:tâm lý học|tâm lý học]]") có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp cổ nghĩa là
Tham chiếu từ điển sớm nhất về từ ''psychology'' trong tiếng Anh là bởi [[Steven Blankaart]] vào năm 1694 trong từ điển ''The Physical Dictionary''<ref>(Steven Blankaart, p. 13) as quoted in
<!-- Định nghĩa hiện đại -->
Năm 1890, [[William James]] định nghĩa ''psychology'' ("tâm lý học") là
== Lịch sử ==
Dòng 33:
=== Hiểu biết tâm lý cổ đại ===
Các nền văn minh cổ đại như [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]], [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]], [[Lịch sử Trung Quốc|Trung Quốc]], [[Lịch sử Ấn Độ|Ấn Độ]] và [[Lịch sử Iran|Ba Tư]] đều có nghiên cứu ở tầm [[triết học]] về tâm lý học. Ở Ai Cập cổ đại, sách [[Ebers Papyrus]] đã nhắc đến chứng [[trầm cảm]] và rối loạn tư duy.<ref>{{cite journal |last1=Okasha |first1=Ahmed |date=2005 |title=Mental Health in Egypt |journal=The Israel Journal of Psychiatry and Related Sciences |volume=42 |issue=2 |pages=116–25 |pmid=16342608 }}</ref> Các nhà sử học cho rằng các triết gia La Mã, bao gồm [[Thales]], [[Platon|Plato]], và [[Aristoteles|Aristotle]] (đặc biệt là trong luận thuyết Bàn về Linh Hồn ''De Anima'' của ông),<ref>"[http://plato.stanford.edu/entries/aristotle-psychology/ Aristotle's Psychology]". Stanford Encyclopedia of Philosophy.</ref> đều đề cập đến cách thức hoạt động của trí óc.<ref>Green, C.D. & Groff, P.R. (2003). ''Early psychological thought: Ancient accounts of mind and soul.'' Westport, Connecticut: Praeger.</ref> Từ thế kỷ IV TCN, thầy thuốc người Hy Lạp cổ đại [[Hippocrates]] đã cho rằng rằng [[bệnh tâm thần]] có nguyên do sinh lý chứ không phải tâm linh.<ref>T.L. Brink. (2008) Psychology: A Student Friendly Approach.
Ở Trung Quốc, hiểu biết về tâm lý học được phát triển trong các công trình triết học của [[Lão Tử]] và [[Khổng Tử]], và sau này từ các học thuyết của [[Phật giáo]]. Các kiến thức này phát triển từ quan sát và nội quan, cũng như các kỹ thuật tư duy sâu. Tư tưởng chung là cho rằng vũ trụ bao gồm, và là kết quả của sự tương tác giữa, thế giới vật chất và thế giới tinh thần, trong đó nhấn mạnh vào việc thanh lọc tâm hồn để tăng cường đức hạnh và năng lực. Tác phẩm cổ đại [[Hoàng Đế Nội Kinh]] xác định não bộ là mối liên hệ giữa trí tuệ và cảm giác, bao gồm những giả thuyết rằng nhân cách được dựa trên sự cân bằng âm - dương, và từ đó phân tích bệnh tâm thần dựa trên sự mất cân bằng sinh lý và xã hội. Giới học thuật Trung Quốc tập trung vào não bộ có bước phát triển tiếp theo vào thời nhà Thanh với các công trình của học giả được đào tạo từ phương Tây như Phương Dĩ Trí (1611–1671),<ref>{{Chú thích web|url=http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?TuKhoa=&ChuyenNganh=28&DiaLy=0&Page=11&ItemID=19830|tiêu đề=Phương Dĩ Trí|website=Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam}}</ref> [[:en:Liu Zhi (scholar)|Lưu Chí (1660–1730)]], và Vương Thanh Nhân (1768–1831). Vương Thanh Nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của não bộ như là trung tâm của hệ thống thần kinh, đề ra mối liên kết giữa bệnh tâm thần với các bệnh về não, nghiên cứu các nguyên nhân gây nên giấc mơ và chứng mất ngủ, và phát triển một lý thuyết về sự chuyên biệt hóa của chức năng não trên bán cầu đại não.<ref name=":9">Yeh Hsueh and Benyu Guo,
Phân biệt về các loại nhận thức khác nhau cũng đã xuất hiện trong các tư tưởng cổ đại ở Ấn Độ, dưới ảnh hưởng của [[Ấn Độ giáo|đạo Hindu]]. Tư tưởng chủ đạo của [[Áo nghĩa thư|Áo Nghĩa Thư]] là sự phân biệt giữa bản ngã trần tục tạm thời của một người và linh hồn bất biến vĩnh cửu của họ. Các học thuyết đạo Hindu khác, và [[Phật giáo|đạo Phật]], có những bất đồng về cấu trúc bản ngã này, nhưng đều nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc đạt đến cảnh giới nhận thức cao hơn. Yoga là một tập hợp các kỹ thuật được dùng để theo đuổi mục đích này. Phần lớn các tập văn tiếng Phạn đã bị trấn áp dưới ảnh hưởng thời [[công ty Đông Ấn Anh]] và sau đó là thời [[Raj thuộc Anh]] vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, các học thuyết Ấn Độ vẫn ảnh hưởng tư tưởng phương Tây thông qua hội Thông Thiên, một tổ chức thời đại mới phổ biến trong giới tri thức Âu - Mỹ.<ref name=":3">Anand C. Paranjpe,
Tâm lý học là một chủ đề phổ biến trong thời kỳ [[Thời kỳ Khai sáng|Khai sáng]] ở châu Âu. Tại Đức, [[Gottfried Leibniz|Gottfried Wilhelm Leibniz]] (1646–1716) đã áp dụng các nguyên lý giải tích của ông cho trí não, chủ yếu cho rằng các hoạt động tâm thần diễn ra trên một trục liên tục không thể bị chia nhỏ, và rằng trong số vô số nhận thức và ham muốn của con người, sự khác biệt giữa nhận biết có ý thức và nhận biết vô thức là rất nhỏ. [[Christian Wolff (nhà triết học)|Christian Wolff]] xác định tâm lý học là một môn khoa học riêng, viết tác phẩm ''Psychologia empirica'' năm 1732 và ''Psychologia rationalis'' năm 1734. Tư tưởng này tiếp tục được phát triển bởi [[Immanuel Kant]], người đã đề ra ý tưởng về ngành nhân chủng học, với tâm lý học là một nhánh quan trọng trong đó. Tuy nhiên, Kant dứt khoát phản đối ý tưởng về tâm lý học dựa trên thí nghiệm, viết rằng
=== Giai đoạn khởi đầu thí nghiệm tâm lý ===
[[
<!-- Giai đoạn bắt đầu nghiên cứu tâm lý một cách khoa học. -->
[[Gustav Fechner]] bắt đầu những nghiên cứu [[tâm vật lý học]] tại Leipzig vào những năm 1830, phổ biến [[nguyên lý cơ bản Weber–Fechner]] rằng nhận thức của con người về một kích thích nào đó biến thiên theo hàm logarit của mật độ kích thích.<ref name=":5">Leahey, ''History of Modern Psychology'' (2001), p. 60.</ref> Tác phẩm ''Elements of Psychophysics'' của Fechner năm 1860 đã phản bác lại sự cứng nhắc của Kant chống lại các nghiên cứu định tính về trí não.<ref name=":4"
Các nhà tâm lý học ở Đức, Đan Mạch, Áo, Anh Quốc và Hoa Kỳ nhanh chóng theo Wundt thiết lập các phòng thí nghiệm.<ref name=":10">Ludy T. Benjamin, Jr., and David B. Baker,
Một học trò khác của Wundt, [[Edward Bradford Titchener|Edward Titchener]], thành lập chương trình tâm lý học ở [[đại học Cornell]] và phát triển học thuyết tâm lý
Một hướng phát triển khác của tâm lý thực nghiệm có liên hệ với sinh lý học cũng được phát triển tại Nam Mỹ dưới sự lãnh đạo của Horacio G. Piñero tại trường [[đại học Buenos Aires]]<ref>Cecilia Taiana,
[[Wolfgang Kohler]], [[Max Wertheimer]] và [[Kurt Koffka]] đồng sáng lập một trường phái tâm lý mang tên [[Tâm lý học Gestalt|Gestalt]] (tâm lý hình thức) (không liên quan đến [[liệu pháp Gestalt]] của [[Fritz Perls]]). Trường phái này dựa trên ý tưởng rằng mỗi cá nhân trải nghiệm và nhận thức vật thể hay thế giới xung quanh mình một cách tổng thể chứ không phải riêng biệt. Thay vì tìm cách phân tách tư tưởng và hành vi thành từng yếu tố nhỏ để nghiên cứu như tâm lý học cấu trúc, các nhà tâm lý Gestalt cho rằng trải nghiệm tổng thể mới quan trọng, và khác biệt với tổng thành phần của các trải nghiệm riêng lẻ. Những nhà khoa học khác cũng đóng góp vào trường phái này trong thế kỷ 19 như nhà tâm lý học [[Hermann Ebbinghaus]], người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu trí nhớ và đã phát triển các mô hình về cơ chế học tập và lãng quên tại [[Đại học Humboldt Berlin|Đại học Berlin]]<ref>Wozniak, R.H. (1999). Introduction to memory: Hermann Ebbinghaus (1885/1913). [http://psychclassics.yorku.ca/Ebbinghaus/wozniak.htm Classics in the history of psychology]</ref>, và nhà sinh lý học Xô Viết nổi tiếng [[Ivan Petrovich Pavlov|Ivan Pavlov]], người phát hiện trên chó cơ chế học tập hành vi mà sau này được gọi là [[phản xạ có điều kiện]] và áp dụng trên người.<ref>{{Cite journal|last=Windholz|first=G.|year=1997|title=Ivan P. Pavlov: An overview of his life and psychological work|journal=American Psychologist|volume=52|pages=941–946|issue=9|doi=10.1037/0003-066X.52.9.941}}</ref>
Dòng 58:
<!-- Giai đoạn thành lập các tổ chức và thể chế về ngành. -->
Một trong những cộng đồng nghiên cứu tâm lý học đầu tiên mang tên ''La Société de Psychologie Physiologique'' tồn tại ở Pháp từ 1885 đến 1893. Cuộc họp đầu tiên của Hội đồng Quốc tế về Tâm lý học diễn ra tại Paris vào mùa thu 1889, tại hội chợ quốc tế kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp, tài trợ bởi tiền thân của [[Liên đoàn Quốc tế về Khoa học Tâm lý|Liên đoàn Quốc tế về Khoa học Tâm lý (IUPsyS).]] William James là một trong số ba người Mỹ trong số bốn trăm đại biểu tham dự. [[Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ]] (APA) ra đời sau đó vào năm 1892. Hội đồng này tiếp tục họp ở nhiều địa điểm khác ở châu Âu, thu hút sự chú ý tham gia từ khắp nơi trên thế giới. Hội nghị lần thứ sáu tổ chức ở Geneva năm 1909, bao gồm phần trình bày tiếng Nga, Trung Quốc, Nhật Bản cũng như tiếng [[Esperanto]]. Sau khi tạm gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Hội đồng họp lần thứ bảy tại Oxford, với sự tham gia đông đảo hơn từ các quốc gia giành chiến thắng trong khối Anh - Mỹ. Năm 1929, hội đồng họp tại đại học Yale, New Haven, Connecticut với sự tham gia của hàng trăm thành viên APA.<ref name=":10"
Ngành tâm lý học tại Hoa Kỳ bắt đầu có địa vị trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khi một uỷ ban thường trực đứng đầu là [[Robert Yerkes]] ứng dụng việc kiểm tra tâm lý (bài kiểm tra quân đội Alpha và Beta) với 1,8 triệu binh lính.<ref name=":6">Nancy Tomes,
Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai và Chiến tranh lạnh, quân đội Hoa Kỳ và các cơ quan tình báo là những đơn vị tài trợ chính cho ngành tâm lý - thông qua quỹ của các đơn vị tác chiến và [[Cơ quan Tình báo chiến lược|Cơ quan Tình báo Chiến lược]] (OSS). Nhà tâm lý thuộc đại học Michigan là Dorwin Cartwright cho biết các nhà nghiên cứu ở trường đại học đã thực hiện các nghiên cứu về tuyên giáo quy mô lớn từ 1939 - 1941, và
Tại Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tâm lý học có vai trò ở tầm đơn vị hỗ trợ trong quân đội, và sau đó phát triển cùng với quân đội dưới thời Đức Quốc Xã.<ref name=":4"
Sau [[Cách mạng Nga (1917)|cách mạng Nga]], tâm lý học được giới thiệu rộng rãi bởi giới [[Bolshevik]]s như là một cách để kiến tạo
Ngành tâm lý học từ thế kỷ 20 tại Trung Quốc ban đầu đi theo mô hình Hoa Kỳ, với các bản dịch từ các tác giả Hoa Kỳ như William James, việc thành lập các khoa tâm lý học ở các trường đại học và tạp chí khoa học chuyên ngành, và các tổ chức như Hiệp hội Đánh giá Tâm lý Trung Quốc (1930) và Cộng đồng Tâm lý học Trung Quốc (1921).<ref>{{cite journal |last1=Mei-ge |first1=Li |last2=Lian-rong |first2=Guan |title=Brief Introduction of the Chinese Psychological Society |journal=International Journal of Psychology |date=January 1987 |volume=22 |issue=4 |pages=479–482 |doi=10.1080/00207598708246790}}</ref> Các nhà tâm lý học Trung Quốc thường được khuyến khích tập trung vào lĩnh vực học tập và ngôn ngữ học, với khát vọng rằng giáo dục sẽ giúp hiện đại hoá và quốc hữu hoá đất nước. John Dewey, người có những bài giảng cho cộng đồng Trung Quốc vào những năm 1918–1920, là người có ảnh hưởng lớn trong học thuyết này. Hiệu trưởng [[Thái Nguyên Bồi]] đã giới thiệu ông tại [[đại học Bắc Kinh]] như là một nhà tư tưởng lớn hơn cả Khổng Tử. Quách Nhậm Viễn (tiếng Anh: [[:en:Zing-Yang Kuo|Kuo Zing-yang]], tiếng Trung Quốc giản thể: 郭任远) nhận bằng tiến sĩ tại đại học California, Berkeley, trở thành chủ tịch của [[đại học Chiết Giang]] là người đã phổ biến thuyết hành vi ở Trung Quốc.<ref>Chin & Chin, ''Psychological Research in Communist China'' (1969), pp. 5–9.</ref> Sau khi [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] nắm quyền đất nước, Liên Bang Xô Viết của Stalin có ảnh hưởng lớn, với [[Chủ nghĩa Marx–Lenin|học thuyết Marx - Lenin]] trở thành học thuyết xã hội chính và phản xạ Pavlov trở thàn khái niệm được chấp nhận trong giải thích các thay đổi hành vi. Các nhà tâm lý học Trung Quốc phát triển mô hình của Lenin về ý thức
== Tổ chức quản lý ngành ==
Dòng 75:
{{See also|Danh sách các tổ chức Tâm lý học}}
Năm 1920, [[Édouard Claparède]] và [[Pierre Bovet]] sáng lập một tổ chức tâm lý học ứng dụng mới gọi là Hội đồng Quốc tế về Kỹ thuật Tâm lý ứng dụng Hướng nghiệp ("International Congress of Psychotechnics Applied to Vocational Guidance"), về sau đổi tên thành Hội đồng Quốc tế về Kỹ thuật Tâm lý ("International Congress of Psychotechnics") và rồi trở thành [[Hiệp hội Quốc tế về Tâm lý học Ứng dụng]] (IAAP).<ref name=":10"
Liên đoàn cấp thế giới của các cộng đồng tâm lý học quốc gia là [[Liên đoàn Quốc tế về Khoa học Tâm lý]] ("International Union of Psychological Science"
Liên đoàn Quốc tế công nhận 66 hiệp hội quốc gia thành viên và tối thiểu 15 hiệp hội khác tồn tại.<ref name="PickrenFowler"
Cộng đồng Tâm lý liên châu Mỹ thành lập từ 1951, với mục tiêu phát triển và điều phối cộng đồng tâm lý xuyên suốt Tây bán cầu. Cộng đồng này tổ chức Hội nghị Tâm lý học liên châu Mỹ và có trên 1000 thành viên vào năm 2000. Hiệp hội Liên đoàn Tâm lý học chuyên nghiệp châu Âu, thành lập từ năm 1981, đại diện cho 30 hiệp hội quốc gia thành viên với tổng cộng trên 100 000 thành viên cá nhân. Có tối thiểu 30 tổ chức quốc tế khác quản lý ngành tâm lý học ở các châu lục khác.<ref name="PickrenFowler"
Ở một vài nơi, chính quyền có quy định cụ thể về mặt pháp luật ai có thể cung cấp dịch vụ tâm lý hoặc được xưng là
=== Giới hạn ===
Những nhà tâm lý học thực chứng thời kỳ đầu phân biệt bản thân với [[Parapsychology|tâm linh học]], bộ môn ở cuối thế kỷ 19 rất được ưa chuộng (thu hút cả sự chú ý của những học giả như William James), và đúng thực tâm linh học bao hàm khá nhiều những thứ thường được mọi người gọi là
Là một bộ môn khoa học, tâm lý học từ lâu đã cố gắng để chống lại những chỉ trích cho rằng nó là một bộ môn khoa học
Trong chính lĩnh vực cũng có sự phân hoá, với một số nhà tâm lý học tập trung vào những trải nghiệm độc nhất của mỗi người, vốn không thể dùng làm dữ liệu cho một tập cộng đồng lớn hơn được. Giới bình luận trong và ngoài lĩnh vực cho rằng các chuyên ngành chính của tâm lý học dần trở nên lệ thuộc vào
== Các lĩnh vực của tâm lý học ==
Dòng 116:
Tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lý học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lý người thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý học Mĩ và thế giới trong suốt thế kỷ XX: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các nhà tâm lý học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson (1878:1958), E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hull (1884-1952) và B.F.Skinner (1904-1990) và A. Bandura v.v…
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ thống quan niệm về tâm lý học đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức. Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc lập, tâm lý học đã được mệnh danh là Tâm lý học nội quan. W.Wundt - người sáng lập ra Tâm lý học này, đã xác định đối tượng của tâm lý học là
Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối với nhiều người: Đối tượng nghiên cứu (ý thức) và nguồn gốc của nó (ý thức bắt đầu từ đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải thích: nguyên nhân tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện tượng khác). Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt ở Mĩ, nơi mà cách tiếp cận thực dụng trong nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh bằng khuynh hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của cá nhân với môi trường. Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc biệt vươn tới mục đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người, sự tạo ra những hình thức hành vi mới.
Phương pháp chủ quan đã mất uy tín, phải nhường vị trí cho phương pháp khách quan. Ở đây, sinh lý học, đặc biệt là sinh lý học thần kinh đã đóng vai trò quan trọng, trong đó công đầu thuộc về nhà sinh lý học người Nga I.P.Pavlov, với khái niệm phản xạ có điều kiện. Về phương diện kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện cho phép ta nhận biết khách quan các phản ứng của cơ thể đối với một kích thích. Các nhà hành vi học đã không bỏ qua thành tựu này. Phương pháp phản xạ trở thành cứu cánh của họ. Mặt khác, sự phát triển của tâm lý học động vật đã mang lại cho Tâm lý học hành vi đối tượng nghiên cứu mới: hành vi của động vật. Sự xuất hiện những nghiệm thể mới – động vật - không có khả năng nội quan, đã đóng vai trò quan trọng giúp nhà nghiên cứu chuyển từ quan sát sang thực nghiệm. Hiệu quả tác động của nghiệm viên bây giờ không phải là tự
Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận điểm của ông là nền tảng lý luận của hệ thống tâm lý học này. Nói tới Tâm lý học hành vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy nhiên, một mình J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển tâm lý học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và kết quả thực nghiệm của họ là cơ sở trực tiếp, để trên đó Watson xây dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học hành vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển học thuyết này, đưa nó thành hệ thống tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát triển của Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính về thời gian: những cơ sở lý luận và thực nghiệm đầu tiên hình thành các luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học hành vi, sau khi có các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới và hậu hành vi).
==== Thuyết phân tâm ====
Ngày nay, thuật ngữ
Lý thuyết Phân tâm học cố gắng miêu tả cấu trúc của bộ máy tâm trí của con người bao gồm miền vô thức, tiền ý thức và ý thức và sự vận hành của bộ máy tâm trí này chính là những xung đột, những cuộc đấu tranh giữa các
+ Cái ấy (Id): vận hành theo nguyên tắc khoái lạc và phải thoả mãn ngay lập tức các nhu cầu tính dục hoặc giải phóng các xung năng.
Dòng 181:
Từ nhỏ ông đã bộc lộ thiên tư trí tuệ tuyệt vời, xuất chúng. Năm 10 tuổi ông đã công bố bài báo khoa học đầu tiên của mình, mô tả các quan sát về một con chim sẻ bạch tạng quý hiếm. Ít lâu sau, ông theo học một tớp giúp việc người quản lý bảo tàng lịch sử thiên nhiên ở địa phương. 15 tuổi J.Piaget đã bộc lộ rõ xu hướng nghiên cứu sinh học và đã công bố những bài báo khoa học, nghiên cứu về động vật có vú.
Năm 18 tuổi J.Piaget đỗ cử nhân và năm 1918, J.Piaget hoàn thành luận án Tiến sĩ thuộc lĩnh vực động vật học, tại Viện đại học Nêuchâtel, với đề tài
Ngoài sinh học, mối quan tâm thứ hai của ông là khoa học luận (Epistemology) - một ngành triết học đề cập đến nguồn gốc phát sinh của hiểu biết, ông nuôi hy vọng táo bạo là có thể hợp nhất hai vấn đề mà ông quan tâm. Vào thời điểm đó, ông cảm thấy, tâm lý học chính là câu trả lời. Ông chuyển đến Paris và dành ra 2 năm để học tâm lý học lâm sàng, lôgíc và triết lý khoa học tại Sorbonne. Trong thời gian ở Pari, J.Piaget được đề nghị đảm trách công việc chuẩn hoá những trắc nghiệm trí thông minh tại phòng thí nghiệm của A.Binet. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến xu hướng nghề nghiệp của ông. J.Piaget sớm nhận thấy và quan tâm nhiều hơn đến những
Năm 1921 (25 tuổi), theo đề nghị của Giáo sư Claparède - Viện trưởng Viện khoa học giáo dục, ông chuyển từ Paris về Genève để đảm nhận chức Trưởng phòng tâm lý thực nghiệm. Năm 1925, ông nhận chức Giáo sư Đại học Nêuchâtel, dạy bao cả ba ngành: Tâm lý học, Xã hội học và Triết học. Năm 1929, được bổ nhiệm Giáo sư Đại học Genève về môn Lịch sử tư tưởng khoa học, Giám đốc Trung tâm giáo dục quốc tế của Unesco và ở cương vị này cho tới năm về hưu (1972). Năm 1933 là Viện trưởng Viện khoa học giáo dục Thụy Sĩ tại Genève. Năm 1940, Giáo sư tâm lý thực nghiệm và năm 1952 là Giáo sư Trường Đại học Sorbonne, Paris.
Trong suốt những năm 1921 đến 1940, mối quan tâm chủ yếu của J.Piaget là lĩnh vực tâm lý học, đặc biệt là sự phát sinh nhận thức và trí tuệ của trẻ em. Trong thời gian này, nhiều công trình đã được ông công bố.
Từ năm 1940 J.Piaget chuyển dần lĩnh vực nghiên cứu từ tâm lý trẻ em sang Lôgic học và Khoa học luận. Từ năm 1950 chuyển hẳn sang lĩnh vực này, đặc biệt là nghiên cứu quá trình phát triển tư duy con người. Năm 1956, ông thành lập ở Genève Trung tâm nghiên cứu quốc tến về nhận thức luận khoa học (Centre international d’ épistemologie Scientifique), với sự tham gia của nhiều nhà Bác học lớn đương thời như Albert Einstein (Vật lý), B.Grize (Toán và Lôgic), W.Mc.Cullôch (Sinh học thần kinh) v.v. Kết quả là trong thời gian này nhiều tác phẩm khoa học của ông đã được xuất bản:
Ngay từ những năm 1935-1965, J.Piaget đã quan tâm tới việc vận dụng kết quả nghiên cứu tâm lý học trẻ em vào các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đặc biệt là vào phương pháp giáo dục trẻ em. Ông đã phân tích và phê phán hạn chế của phương pháp giáo dục cổ truyền, quảng bá các phương pháp giáo dục mới, trong đó đề cao vai trò của phương pháp hoạt động trong dạy học. Coi đó là phương pháp mang lại hiệu quả hơn hẳn những phương pháp đương thời. Các tác phẩm:
J.Piaget là người lao động không mệt mỏi. Suốt cuộc đời, ông quan sát, thử nghiệm, tích luỹ khối lượng khổng lồ dữ kiện về sự phát triển tâm lý trẻ em. Hàng năm, khi kết thúc năm học, ông mang tài liệu thu thập được đến một trang trại vắng người dưới chân núi Alpea. Ở đó, cả mùa hè, ông không tiếp xúc với khách, miệt mài phân tích, tổng hợp tư liệu, hình thành nên các tác phẩm khoa học. Trong suốt 70 năm làm việc J.Piaget đã công bố hàng trăm cuốn sách và bài viết về các lĩnh vực sinh học, tâm lý học, ngôn ngữ, lôgic… trong hệ thống lý thuyết liên bộ môn đồ sộ.
Dòng 199:
Sinh thời, J.Piaget được kính trọng trên khắp thế giới. Ông là giáo sư của nhiều trường Đại học lớn ở Pháp và Thụy Sĩ Giám đốc phòng thực nghiệm, phụ trách văn phòng Quốc tế về giáo dục, Uỷ viên Hội đồng chấp hành của Unesco, Viện sĩ và tiến sĩ danh dự của nhiều trường Đại học, Viện hàn lâm danh tiếng: Harvard (1936), Columbia (1970), Bruvtelle (1940), Brazill (1949).
J.Piaget là nhà Bác học đa lĩnh vực: Bắt đầu từ sinh học, sang tâm lý học đến nhận thức luận, trong lĩnh trực nào ông cũng ông có nhiều cống hiến lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý học trẻ em. Những công trình về lĩnh vực này của ông uyên bác đến mức, trong diễn văn khai mạc Hội nghị tâm lý học thế giới lần thứ 21, năm 1976, Chủ tịch hội tâm lý học thế giới, nhà Tâm lý học Pháp Paul Praisse đã phát biểu:
==== Thuyết hoạt động ====
|