Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Lương Huy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n →‎Tiểu sử: clean, replaced: " → "
Dòng 26:
Sử sách không ghi chép nhiều về hành trạng của công chúa Lương Huy, ngay cả chồng bà là ai cũng không được nhắc đến. Dựa trên việc đa phần các Thái trưởng công chúa (cô của vua) và Trưởng công chúa (chị em của vua) đều được ban phong hiệu vào năm [[Tự Đức]] thứ 22 ([[1869]]), bà Lương Huy rất có thể được sách phong làm '''Tự Tân Công chúa''' (自新公主) vào thời gian này.
 
Không rõ công chúa Lương Huy mất vào năm nào. Phong hiệu của hai bà công chúa Tự Tân và Lạc Thành ([[húy]] là [[Nguyễn Phúc Nhàn Đức|Nhàn Đức]], con gái thứ 31 của vua [[Thiệu Trị]]) được nhắc đến trên tấm bia khắc tên những người đã quyên tiền sửa chữa [[chùa Từ Hiếu]]<ref name=":0">[http://tapchincpt.huecit.com/Portals/0/Attachs/Nam2019/T3/Chua%20Tu%20Hieu.pdf Chùa Từ Hiếu] (2005), ''Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển'', số 1-2 (49-50), tr.89-90</ref>. Tấm bia này được dựng vào năm [[Thành Thái]] thứ 11 ([[1899]]), có nghĩa là công chúa Lương Huy, và cả công chúa [[Nguyễn Phúc Nhàn Đức|Nhàn Đức]], đều vẫn còn sống vào thời điểm này<ref name=":0" />.
 
Tẩm mộ của công chúa Tự Tân được táng tại kiệt 32 đường Huyền Trân Công Chúa (thuộc địa phận phường [[Thủy Biều, Huế]]). Gần đó là tẩm của Thuận tần Hoàng thị, mẹ của công chúa.