Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Hòa Hiệp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
FutureBot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thay thể loại Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa bằng Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
n dọn dẹp, replaced: VNCH → Việt Nam Cộng hòa (6)
Dòng 93:
|nơi mất= [[California]], [[Hoa Kỳ]]
|phục vụ= [[Hình: Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
|thuộc= [[Hình: Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|năm phục vụ= [[1950]]-[[1975]]
|cấp bậc= [[Hình: US-O7 insignia.svg|16px]] [[Chuẩn tướng]]
|đơn vị= [[Hình: Flag of ARVN Armored Cavalry Regiment.png|20px]] [[Binh chủng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa|Binh chủng Thiết giáp]]<br>[[Hình: ARVN 2nd Division SSI.svg|20px]] [[Sư đoàn 2 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 2 Bộ binh]]
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|20px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br>[[Hình: Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg|20px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|công việc khác= -[[Trại Davis|Trưởng đoàn Quân sự]]<br>-[[Bộ trưởng|Tổng trưởng]]
Dòng 111:
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Tháng 10 năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu. Chính thức từ Quân đội Liên hiệp Pháp chuyển sang phục vụ cơ cấu Quân đội mới, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] và được cử theo học khóa căn bản Thiết giáp (cấp Trung và Đại đội) tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông ở [[Cap Saint-Jacques]]. Tháng 4 năm 1953, mãn khóa học ra đơn vị, ông được giữ chức vụ Đại đội trưởng Đai đội 2 Thám thính.<ref>Đại đội 2 Thám thính được thành lập ngày 1/5/1952 tại An Nông (Huế) thuộc Chi đoàn 2 Thiết giáp do Đại úy [[Dương Ngọc Lắm]] làm Chi đoàn trưởng đầu tiên.</ref> Cuối năm 1954, ông được thăng cấp [[Trung úy]], bàn giao Đại đội 2 Thám thính lại cho Đại úy [[Hoàng Đôn Thận (Trung tá, Quân lực VNCVH)|Hoàng Đôn Thận]],<ref>Đại uý Hoàng Đôn Thận sinh năm 1926 tại Bình Định, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Năm 1955 là Thiếu tá Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp đầu tiên trong hệ thống Liên trường Võ khoa Thủ Đức. Năm 1963, giải ngũ ở cấp Trung tá</ref> sau đó được chọn đi du học khóa cao cấp Thiết giáp tại trường Thiết giáp Kỵ binh Saumur, Pháp<ref>-Sĩ quan được cử đi học khóa cao cấp Thiết giáp ở trường Kỵ binh Samur Pháp, còn có các Đại úy [[Nguyễn Duy Hinh]] và [[Lê Đức Đạt]]. Các Trung úy [[Trần Quang Khôi]] và [[Thẩm Nghĩa Bôi (Đại tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Thẩm Nghĩa Bôi]] (Sinh năm 1923 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Tham mưu phó Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương.</ref>
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Dòng 117:
Cuối tháng 10 năm 1955, [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] được đổi tên thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], ông tiếp tục phục vụ cơ cấu mới này. Tuy nhiên, mãi đến giữa năm 1963 ông mới được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử giữ chức Tham mưu trưởng trường Thiết giáp ở Thủ Đức do Thiếu tá [[Nguyễn Văn Toàn]] làm Chỉ huy trưởng.
 
Tháng 11 năm 1963, ông thuộc nhóm sĩ quan tham gia cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính]] ngày 1 tháng 11, lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vì vậy, khi đảo chính nổ ra, ông chỉ huy một Chi đoàn Thiết giáp M.113 về bảo vệ Bộ Tổng tham mưu. Sáng ngày 2 tháng 11, ông được lệnh dẫn theo 2 xe thiết giáp M.113 cùng một số sĩ quan tháp tùng đến [[Nhà thờ Cha Tam]] để đón hai anh em ông Diệm và ông Nhu. Trong số các sĩ quan đi cùng, có tướng [[Mai Hữu Xuân]], Đại tá [[Dương Ngọc Lắm]], Thiếu tá [[Dương Hiếu Nghĩa (Đại tá, QUân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Dương Hiếu Nghĩa]]<ref>Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa sinh năm 1925 tại Sa Đéc, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Uỷ viên trong ban Liên hợp 4 bên ở trại Davis (Tân Sơn Nhất)</ref> và Đại úy [[Nguyễn Văn Nhung]]. Tuy nhiên, khi về đến Bộ Tổng tham mưu, hai anh em ông Diệm, vốn được áp tải trong một chiếc M.113, đã chết trong hoàn cảnh đầy nghi vấn. Buổi chiều cùng ngày, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]]. Một số tài liệu chưa được kiểm chứng còn cho rằng ông còn nhận được 100.000 đồng tiền thưởng từ Trung tướng [[Trần Văn Đôn]]. Do những sự kiện này, nhiều tài liệu nghi vấn về vai trò của ông trong cái chết đầy tranh cãi của anh em ông Tổng thống Diệm và ông Cố vấn Nhu.<ref>Tướng Hiệp cũng là một trong số các nhân chứng về cái chết đầy nghi vấn của Tổng thống Diệm và Cố vấn Nhu ngày 1 tháng 11 năm 1963.</ref>
 
Tháng 12 năm 1963, ông được cử làm Chiến đoàn phó Chiến đoàn M.24 tại Sài Gòn do Trung tá Dương Hiếu Nghĩa làm Chiến đoàn trưởng. Đầu tháng 1 năm 1967, ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp (sau đổi tên thành Thiết đoàn 4) đóng tại Đà Nẵng. Tháng giêng năm 1968, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.
 
==== Chỉ huy trưởng Thiết giáp ====
Tháng 8 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Tháng 9 cùng năm, ông bàn giao Thiết đoàn 4 lại cho Thiếu tá [[Nguyễn Hữu Lý (Trung tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Nguyễn Hữu Lý]],<ref>Thiếu tá Nguyễn Hữu Lý sinh năm 1928 tại Quảng Nam, tốt nghiệp khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau cùng là Trung tá Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 20 Kỵ binh.</ref> sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Thiết giáp binh tại Trại Phù Đổng ở Gò Vấp thay thế Trung tá [[Dương Văn Đô (Đại tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Dương Văn Đô]].<ref>Trung tá Dương Văn Đô sinh năm 1926 tại Sơn Tây, tốt nghiệp khóa 2 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau cùng là Đại tá phụ tá Chỉ huy trưởng tại Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương.</ref>
 
Tháng giêng năm 1971, bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp lại cho Đại tá Dương Văn Đô, ông được cử làm Tư lệnh Lữ đoàn 1 Thiết giáp tân lập tại Đà Nẵng, chỉ huy đơn vị tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh chiếm A Lưới. Cuối tháng 2 cùng năm, ông tái nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp một lần nữa thay thế Đại tá Dương Văn Đô.