Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kanji”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 215:
Cách đọc kiểu Nhật hay cách đọc bản địa, '''''kun'yomi''''' (訓読み) hay "Hòa Ngữ" (和語 - ''"wago"''), là cách đọc một chữ kanji lấy nghĩa, dựa trên cách phát âm của một từ tương đương [[tiếng Nhật]], tức ''yamatokotoba''. Cách đọc này chuyển nghĩa của kanji sang một chữ tương xứng nhất trong tiếng Nhật. Giống với ''on'yomi'', mỗi kanji có thể có một hoặc nhiều cách đọc. Có khi kanji đó chỉ có ''on'yomi'' mà không có ''kun'yomi''.
 
Lấy ví dụ, chữ tự kanji [[wikt:|東]], "([[hướng Đông|phía đông]]",) có cách đọc ''on'yomi'' là ''tō'' (とう). Tuy nhiên, [[tiếng Nhật]] vốn đã có 2 từ mang nghĩa "phía đông" là: ''higashi'' (ひがし) và ''azuma'' (あずま). Do đó, ký tự 東 có những cách đọc ''kun'' là ''higashi'' và ''azuma''. Ngược lại, ký tự kanji chữ, "(thốn",) biểu thị một đơn vị đo [[chiều dài]] trong tiếng Hán (xấp xỉ 3 cm), [[tiếng Nhật]] bản địa không có từ nào mang nghĩa tương đương. Do đó, nó chỉ có cách đọc ''on'' là ''sun'' và không có cách đọc ''kun'' nào. Hầu hết các ''[[kanji#Kokuji|kokuji]]'', tức các ký tự kanji do người Nhật tạo ra thêm, chỉ có các cách đọc ''kun''.
 
Đặc trưng của ''kun'yomi'' được quyết định bởi cấu trúc âm tiết (phụ)-nguyên của ''yamatokotoba''. Hầu hết các ''kun'yomi'' của danh từ và tính từ thường có độ dài từ 2 đến 3 âm tiết, không tính các ký tự [[hiragana]] đi kèm có tên gọi ''[[okurigana]]''. ''Okurigana'' không được xem là một phần trong bản chất cách đọc của ký tự, mặc dù chúng là một phần trong cách đọc của toàn bộ từ. Người mới học tiếng Nhật có thể ít khi gặp phải các ký tự có cách đọc dài, nhưng những cách đọc có ba bốn âm tiết hay thậm chí nhiều hơn không hề hiếm. Những từ như 承る ''uketamawaru'' và 志 ''kokorozashi'' có đến 5 âm tiết chỉ để biểu đạt một ký tự kanji, đây là những cách đọc dài nhất trong số các kanji nằm trong bộ [[Jōyō kanji]]. Nếu viết theo hiragana sẽ là うけたまわる và こころざし, khá là dài, vì thế người Nhật hay viết bằng Kanji cho các từ này, đặc biệt là trong nhắn tin và email để giảm dung lượng và số ký tự phải gửi.
Dòng 237:
Quy tắc vỡ lòng là đối với những kanji độc lập, chẳng hạn một ký tự biểu diễn một từ đơn nhất, thường được đọc bằng cách đọc ''kun'yomi'' của chúng. Chúng có thể được viết cùng với [[okurigana]] để biểu đạt biến cách kết thúc của động từ hay tính từ, hay do qui ước. Ví dụ: 情け ''nasake'' "sự cảm thông", 赤い ''akai'' "đỏ", 新しい ''atarashii'' "mới", 見る ''miru'' "nhìn", 必ず ''kanarazu'' "nhất định, nhất quyết". [[Okurigana]] là một khía cạnh quan trọng trong cách dùng kanji trong tiếng Nhật; xem bài viết đó để biết thêm về ''kun'yomi''.
 
Các từ ghép kanji nhìn chung được đọc bằng ''on'yomi'', trong tiếng Nhật gọi là 熟語 ''jukugo'' (''thục ngữ''). Ví dụ, 情報 ''jōhō'' "thông tin", 学校 ''gakkō'' "trường học", và 新幹線 ''shinkansen'' "tàu tốc hành" đều tuân theo dạng này. Sự khác nhau giữa quy tắc đọc kanji độc lập và ghép làm cho nhiều từ có ý nghĩa gần giống nhau nhưng lại có cách đọc hoàn toàn khác nhau. 東 "hướng đông" và 北 "hướng bắc" khi đứng độc lập dùng cách đọc ''kun'' tương ứng là ''higashi'' và ''kita'', trong khi từ ghép 北東 "hướng đông bắc" lại dùng cách đọc ''on'' là ''hokutō''. Điều này còn phức tạp hơn bởi thực tế nhiều kanji có nhiều hơn một cách đọc ''on'yomi'': 生 (sinh) đọc là ''sei'' trong từ 先生 ''sensei'' "giáo viên" nhưng lại đọc là ''shō'' trong 一生 ''isshō'' nghĩa là "cả đời người". Ý nghĩa cũng có thể là tác nhân đối với cách đọc; 易 (dị) đọc là ''i'' khi nó mang nghĩa "đơn giản" (易しい ''yasashii''), nhữngnhưng lại thành ''eki'' khi nó mang nghĩa "tiên đoán, bói toán", cả hai cách đọc đều là ''on'yomi'' của ký tự này.
 
Quy tắc vỡ lòng này cũng có rất nhiều ngoại lệ. Số lượng những từ ghép đọc bằng ''kun'yomi'' không lớn như ''on'yomi'', nhưng cũng không phải là hiếm. Chẳng hạn như 手紙 ''tegami'' "thư", 日傘 ''higasa'' "cái ô", hay một từ khá nổi tiếng 神風 ''[[thần phong|kamikaze]]'' "ngọn gió thần thánh". Những từ ghép như thế cũng có thể có okurigana, như 空揚げ (còn được viết là 唐揚げ) ''karaage'' "đồ ăn chiên" và 折り紙 ''[[origami]]'' "nghệ thuật gấp giấy", mặc dù nhiều khi chúng được viết bỏ đi okurigana (ví dụ, 空揚 hay 折紙).
Dòng 247:
Như đã nói ở trên, cách đọc 重箱 ''jūbako'' và 湯桶 ''yutō'' cũng không hề hiếm. Thực tế, toàn bộ 4 kiểu kết hợp cách đọc đều có thể xảy ra: ''on-on'', ''kun-kun'', ''kun-on'' và ''on-kun''.
 
Nhiều tên địa danh nổi tiếng, như [[Tōkyō|Tokyo]] (東京 ''Tōkyō'') hay ngay cả tên [[Nhật Bản]] (日本 ''Nihon'' hoặc nhiều khi đọc là ''Nippon'') được đọc bằng ''on'yomi''; tuy nhiên, đại đa số tên địa danh ở Nhật được đọc bằng ''kun'yomi'': 大阪 ''Ōsaka'', 青森 ''Aomori'', 箱根 ''Hakone''. Khi các ký tự được dùng để viết tắt tên địa danh, cách đọc của chúng có thể không như nguyên gốc. Đội bóng chày của Osaka (大阪) và Kobe (神戸) có tên gọi Hanshin (阪神) Tigers, được lấy từ cách đọc ''on'yomi'' của ký tự kanji thứ 2 trong từ ''Ōsaka'' và đầu tiên trong từ ''Kōbe''. Tên của tuyến đường sắt Keisei (京成) nối thành phố Tokyo (東京) và Narita (成田) cũng tương tự như vậy, nhưng cách đọc ký tự 京 trong 東京 lại biến thành ''kei'', mặc dù ''kyō'' là một cách đọc ''on'yomi'' trong từ ''Tōkyō''.
 
Tên họ của người Nhật cũng thường được đọc bằng ''kun'yomi'': 山田 ''Yamada'', 田中 ''Tanaka'', 鈴木 ''Suzuki''. Tên riêng tuy không hẳn được đọc theo kiểu ''jūbako'' hay ''yutō'' đã đề cập, mà cũng bao gồm lẫn lộn ''kun'yomi'', ''on'yomi'' và ''nanori'': 大助 ''Daisuke'' [''on-kun''], 夏美 ''Natsumi'' [''kun-on'']. Do các bậc cha mẹ thường tự lựa chọn theo ý riêng, nên cách đọc tên riêng thường không theo bất kỳ quy tắc nào và cũng không thể biết chắc chắn cách đọc tên riêng của một người nếu không xác định lại. Người đặt tên có thể khá sáng tạo, có những đứa trẻ mang tên 地球 ''Āsu'' hay 天使 ''Enjeru'', nghĩa đen tương ứng là "Địa Cầu" và "Thiên Sứ", những cách phát âm cũng gần giống các từ [[tiếng Anh]] "Earth" và "Angel" (khi được Nhật hóa phát âm); chúng không phải là tên phổ biến, cách đọc thông thường của 2 từ này tương ứng là ''chikyū'' và ''tenshi''. Tuy nhiên, luôn có những quy tắc phổ biến giúp người đọc có kinh nghiệm có thể đoán trước khá chính xác cách đọc của hầu hết tên riêng.