Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phản ứng tổng hợp hạt nhân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 9:
Nhiên liệu thường dùng trong phản ứng tổng hợp hạt nhân là các [[đồng vị]] [[deuteri]]um và [[triti]]um của [[Hiđrô|hydrogen]]. Các đồng vị này có thể trích lấy dễ dàng từ thành phần nước biển, hoặc tổng hợp không mấy tốn kém từ nguyên tử hydrogen.
 
Để làm cho các hạt nhân hợp lại với nhau, cần tốn một nguồn năng lượng rất lớn, ngay cả với các nguyên tử nhẹ nhất như hydro. Điều đó được giải thích là do các quá trình của phản ứng đều khó thực hiện: bước 1 cần phải nguyên tử hóa các phân tử, ion hóa hoàn toàn tất cả các nguyên tử, đồng thời tách loại electron để biến nhiên liệu phản ứng hoàn toàn trở thành hạt nhân không có electron ở thể [[plasma]]. Sau đó cần phải cung cấp [[động năng]] cực kỳ lớn cho các hạt nhân vượt qua tương tác đẩy Coulomb giữa chúng mà va vào nhau. Nhiệt độ cần thiết có thể lên đến hàng triệu [[độ Celsius|độ C]]. Nhưng sự kết hợp của các nguyên tử nhẹ, để tạo ra các nhân nặng hơn và giải phóng 1 [[neutron]] tự do, sẽ phóng thích nhiều năng lượng hơn năng lượng nạp vào lúc đầu khi hợp nhất hạt nhân. Điều này dẫn đến một quá trình phóng thích năng lượng có thể tạo ra phản ứng tự duy trì. Tuy nhiên, từ hạt nhân sắt trở đi, việc tổng hợp hạt nhân trở nên thu nhiệt nhiều hơn [[Quá trình tỏa nhiệt|tỏa nhiệt]]. Việc cần nhiều năng lượng để khởi động thường đòi hỏi phải nâng [[nhiệt độ]] của hệ lên cao trước khi phản ứng xảy ra. Chính vì lý do này mà phản ứng hợp hạch còn được gọi là '''phản ứng nhiệt hạch'''.
 
Năng lượng phóng thích từ phản ứng hạt nhân thường lớn hơn nhiều so với [[phản ứng hóa học]], bởi vì năng lượng kết dính giữ cho các nhân với nhau lớn hơn nhiều so với năng lượng để giữ các electron với nhân. Ví dụ, năng lượng để thêm 1 electron vào nhân thì bằng 13.6 [[electronvolt|eV]], nhỏ hơn một phần triệu của 17 [[Electronvolt|MeV]] giải phóng từ phản ứng D-T (deuterium-tritium, các [[đồng vị]] của [[hiđrô]]).