Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng – Cổ Cận”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 83:
===Bò sát ''Archosauria'' (Thằn lằn chúa) ===
 
Nhánh [[thằn lằn chúa]] (Archosauria) gồm 2 bộ còn sinh tồn là [[Bộ Cá sấu|cá sấu]] (gồm các họ còn sinh tồn duy nhất là [[Alligatoridae]], [[Cá sấu|Crocodylidae]] và [[Họ Cá sấu Ấn Độ|Gavialidae]]) và khủng long (Dinosauria, trong đó chim là nhóm các thành viên còn sinh tồn duy nhất), cùng với các loài [[khủng long]] phi chimđiểu và [[thằn lằn có cánh]] (Pterosauria) đã tuyệt chủng.
 
====Bò sát dạng cá sấu====
Dòng 95:
====Chim====
 
Hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều cho rằng chim là nhánh còn sinh tồn duy nhất của khủng long (xem bài [[nguồn gốc của chim]]). Tuy nhiên, tất cả các loài chim không thuộc nhóm chim hiện đại ([[Neornithes]]) đã bị tuyệt chủng, bao gồm cả các nhóm đang phồn thịnh như [[Enantiornithes]] (chim đối ngược) và [[Hesperornithes]] (chim hoàng hôn).<ref>{{chú thích tạp chí |author=Hou L, Martin M, Zhou Z, Feduccia A |year=1996 |title=Early Adaptive Radiation of Birds: Evidence from Fossils from Northeastern China |journal=Science |volume=274 |issue=5290 |pages=1164–1167 |doi=10.1126/science.274.5290.1164 |pmid=8895459 |bibcode = 1996Sci...274.1164H }}</ref> Một vài phân tích hóa thạch chim chỉ ra rằng có sự phân nhánh các loài trước ranh giới K-T, và cho rằng các họ hàng của vịt, gà và [[bộ Đà điểu|đà điểu]] đã cùng tồn tại với các loài khủng long phi chimđiểu.<ref>{{chú thích tạp chí |title=Definitive fossil evidence for the extant avian radiation in the Cretaceous |author=Clarke JA, Tambussi CP, Noriega JI, Erickson GM, Ketcham RA |year=2005 |journal=Nature |volume=433 |issue=7023 |pages=305–308 |doi=10.1038/nature03150 |pmid=15662422 |bibcode = 2005Natur.433..305C }}</ref> Một lượng lớn các mẫu hóa thạch chim được thu thập đại diện cho một dải các loài khác nhau cung cấp các bằng chứng dứt khoát về sự tồn tại của các loài chim cổ trong vòng 300.000 năm của ranh giới K–Pg. Không có loài nào trong chúng được biết là đã sống sót cho đến thế Paleogen, và sự tồn tại của chúng vào cuối thời kỳ của tầng Maastricht do đó cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ đối với sự tuyệt chủng hàng loạt của các loài chim cổ trùng khớp với sự va chạm của tiểu hành tinh [[Hố Chicxulub|Chicxulub]]. Một tỉ lệ nhỏ các loài chim kỷ Phấn Trắng đã sống sót sau sự kiện này và chúng phát triển thành các loài chim hiện nay.<ref name=longrichetal2011>{{chú thích tạp chí | doi = 10.1073/pnas.1110395108 | last1 = Longrich | first1 = Nicholas R. | last2 = Tokaryk | first2 = Tim | last3 = Field | first3 = Daniel J. | year = 2011 | title = Mass extinction of birds at the Cretaceous–Paleogene (K–Pg) boundary. | url = http://www.pnas.org/content/108/37/15253 | journal = Proceedings of the National Academy of Sciences | volume = 108 | issue = 37 | pages = 15253–15257}}</ref><ref>{{chú thích web | url = https://www.sciencedaily.com/releases/2011/09/110919151315.htm | title = Primitive Birds Shared Dinosaurs' Fate | date = ngày 20 tháng 9 năm 2011 | publisher = Science Daily | accessdate= ngày 20 tháng 9 năm 2011}}</ref> Hơn thế nữa, chỉ có một loài chim duy nhất chưa được đặt tên đã được xác định một cách chắc chắn sự tồn tại của chúng ở trên và dưới ranh giới K-Pg (nó có mặt trong [[hệ tầng Hell Creek]] thuộc tầng Maastricht và [[hệ tầng Fort Union]] thuộc tầng Đan Mạch.<ref name=longrichetal2011/> Nhóm chim duy nhất có thể nói là đã sống sót qua ranh giới K-T là chim hiện đại ([[Neornithine]], trừ 1 loài trong thế Paleogen, ''[[Qinornis paleocenica]]'', có thể là loài chim đã sống sót không thuộc nhóm Neornithine).<ref name=longrichetal2011/> Chim hiện đại có khả năng sống sót qua sự kiện tuyệt chủng là do khả năng lặn, bơi và tìm nơi cư ngụ trong nước và đầm lầy. Một số loài chim hiện đại có thể đào hang, hoặc làm tổ trong các hốc cây hay trong tổ mối, vì các môi trường này giúp chúng ít chịu ảnh hưởng về biến đổi môi trường trong ranh giới K-T. Sự sống sót trong khoảng thời gian dài vượt qua ranh giới này được đảm bảo như là kết quả của sự lấp đầy các hốc sinh thái rỗng do sự tuyệt chủng của các loài khủng long phi chimđiểu để lại.<ref name="Robertson"/>
 
====Khủng long phi chimđiểu====
[[Hình:Tyrannosaurus BW.jpg|nhỏ|''[[Khủng long bạo chúa|Tyrannosaurus]]'' là một trong những loài khủng long cuối cùng phát triển mạnh trên Trái Đất trước khi tuyệt chủng.<ref name=AF04>{{chú thích sách |first=Archibald|last=David|author2=David Fastovsky|editor=Weishampel David B, Dodson Peter, Osmólska Halszka (eds.) |title=The Dinosauria |edition=2nd |year=2004 |publisher=University of California Press |location=Berkeley |isbn=0-520-24209-2 |pages=672–684 |chapter=Dinosaur Extinction |chapterurl=http://www.bio.sdsu.edu/faculty/archibald/ArchFast.pdf }}</ref>]]
Ngoài một vài tranh cãi, về cơ bản các nhà khoa học đồng ý rằng tất cả loài khủng long phi chimđiểu tuyệt chủng ở ranh giới K-T. Các hóa thạch khủng long đã từng được diễn giải như là chỉ ra cả sự sụt giảm về đa dạng lẫn sự không sụt giảm về đa dạng trong khoảng thời gian vài triệu năm cuối của kỷ Phấn Trắng, và có thể là do chất lượng hóa thạch khủng long không đủ tốt để các nhà nghiên cứu phân biệt được các lựa chọn.<ref name=AF04/> Vì không có bằng chứng nào cho thấy rằng khủng long phi chimđiểu trong tầng Maastricht muộn có thể đào hang, bơi hoặc lặn, nên chúng không thể che chở cho chính chúng trước những phần tệ hại nhất của bất kỳ áp lực môi trường nào xảy ra tại ranh giới K-T. Có thể là các loài khủng long nhỏ (chứ không phải chim) đã sống sót, nhưng chúng có thể đã thiếu thức ăn, do nhóm khủng long ăn cỏ thì bị khan hiếm thức ăn thực vật, còn khủng long ăn thịt thì nhanh chóng nhận thấy sự cung cấp con mồi bị thiếu hụt.<ref name="Robertson"/>
 
Sự đồng thuận về ''nội nhiệt'' của khủng long giúp chúng ta hiểu về sự tuyệt chủng hoàn toàn của chúng trong mối tương quan với các họ hàng gần gũi là [[cá sấu]]. Các loài cá sấu ngoại nhiệt ("máu lạnh") có ít nhu cầu về thức ăn (chúng có thể sống hàng tháng mà không cần ăn) trong khi các loài nội nhiệt ("máu nóng") với kích thước tương tự thì cần nhiều thức ăn hơn nhằm duy trì quá trình trao đổi chất nhanh hơn. Do đó, khi chuỗi thức ăn bị phá vỡ như đã đề cập ở trên, các loài khủng long phi chimđiểu bị chết<ref name="autogenerated347"/> trong khi một số loài cá sấu thì sống. Trong bối cảnh này, sự sống còn của các loài nội nhiệt khác như một số loài thú và chim, có thể là do những lý do khác, liên quan đến các nhu cầu thức ăn ít hơn của chúng, hoặc cũng liên quan đến kích thước nhỏ của chúng tại thời điểm tuyệt chủng.<ref name="springerlink.com">{{chú thích sách |last=Ocampo|first=A|coauthors=Vajda V, Buffetaut E |title=Unravelling the Cretaceous–Paleogene (K–T) turnover, evidence from flora, fauna and geology in biological processes associated with impact events (Cockell C, Gilmour I, Koeberl C, editors) |publisher=SpringerLink |year=2006 |pages=197–219 |isbn=978-3-540-25735-6 | url = http://link.springer.com/chapter/10.1007%2F3-540-25736-5_9 |accessdate = ngày 20 tháng 2 năm 2012}} [http://www.geol.lu.se/personal/viv/Ocampo%20et%20al.%202006%20Impacts_Springer.pdf Pdf]</ref>
 
Sự tuyệt chủng diễn ra từ từ hay diễn ra đột ngột vẫn còn là điều gây tranh cãi, do cả hai quan điểm này đều có những bằng chứng hóa thạch hỗ trợ. Một nghiên cứu về 29 địa điểm hóa thạch trong dãy núi [[Pyrénées|Pyrenees]] phần thuộc xứ [[Catalunya]], Tây Ban Nha, châu Âu, năm 2010 cho rằng khủng long đã phát triển rất đa dạng cho đến thời điểm được cho là thiên thạch va chạm vào Trái Đất.<ref>{{chú thích tạp chí
Dòng 115:
|doi=10.1016/j.palaeo.2010.01.037
|url=
}}</ref> Các quan điểm khác diễn giải hóa thạch trong đá dọc theo [[sông Red Deer]] ở Alberta, Canada, như là bằng chứng hỗ trợ cho quan điểm tuyệt chủng từ từ của các loài khủng long phi chimđiểu; trong suốt 10 triệu năm cuối của các lớp đá tuổi Creta ở đây, số lượng các loài khủng long có vẻ giảm từ khoảng 45 xuống còn 12. Các nhà khoa học khác cũng đưa ra quan điểm tương tự.<ref>{{chú thích tạp chí
|author=Ryan MJ, Russell AP, Eberth DA, Currie PJ
|title=The taphonomy of a Centrosaurus (Ornithischia: Ceratopsidae) bone bed from the Dinosaur Park Formation (Upper Campanian), Alberta, Canada, with comments on cranial ontogeny