Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Dung”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 31:
[[Tập tin:Liu Yong Hongyinshanfang board.JPG|nhỏ|280x280px|Bốn chữ ''Hồng ẩm sơn phòng'' do Lưu Dung viết theo lối thư pháp|thế=]]
[[Tập tin:Liu Yong chengzisizhen board.JPG|nhỏ|280x280px|Bốn chữ ''Trình tử tứ châm'' do Lưu Dung viết treo tại một hành cung của Càn Long|thế=]]
'''Lưu Dung''' ([[chữ Hán phồn thể|phồn thể]]: 劉墉, [[chữ Hán giản thể|giản thể]]: 刘墉, [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: '''''Liú Yōng''''', 1719 - 1805), tự là '''Sùng Như''' (崇如), hiệu là '''Thạch Am''' (石庵), là một vị quan đại thần thời [[nhà Thanh]], trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông còn được dân gian gọi là '''Tể tướng Lưu gù''' hay '''Lưu gù''', dù
[[Tập tin:劉墉人像圖2.jpg|nhỏ|345x345px|Chân dung vẽ Lưu Dung]]
Dòng 40:
Lưu Dung sinh năm 1719, quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu, nay là thành phố cấp huyện [[Cao Mật]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]]. Ông là con trai của Quân cơ đại thần [[Lưu Thống Huân]], chức vụ tương đương với [[Tể tướng]] thời xưa. Tương truyền, ông có một cái bướu ở lưng. Vì thế, dân gian gọi ông '''Lưu La Oa'''.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.nguoiduatin.vn/su-that-ve-cuoc-doi-dau-giua-hoa-than-va-luu-dung-a439033.html|tựa đề=Sự thật về cuộc đối đầu giữa Hoà Thân và Lưu Dung|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
Không chỉ là một nhà chính trị, ông còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Vì thế mà
Lưu Dung là người rất có danh vọng trong lòng dân chúng thời đó, được mọi người kiêng nể. Vua Càn Long, vì sự yên ổn của [[Nhà Thanh|Đại Thanh]], cũng không thể dễ dàng chém đầu một viên quan được hết lời ca tụng là thanh liêm, mẫu mực như vậy. Ông lại còn miễn tội, giảm án cho Lưu Dung cũng là cách để gây dựng tiếng tăm, củng cố quyền lực của [[Hoàng đế]].
Những năm cuối đời, ông được nhận được sự tín nhiệm rất lớn Thái tử [[Gia Khánh|Vĩnh Diễm]]. Ông được tấn phong làm ''Thái tử thái bảo'', tức thầy của Thái tử. Khi Vĩnh Diễm lên ngôi, tức [[Gia Khánh|Gia Khánh Đế]], Lưu Dung nghiễm nhiên trở thành sủng thần số một trong triều. Đối lập với ông, [[Hòa Thân]] từng là sủng thần trong triều thời [[Càn Long]], nay bị [[Gia Khánh]] ban
Lưu Dung mất năm 1805, thọ 86 tuổi. Như vậy, ông đã có hơn 50 năm làm quan trong cả hai thời [[Càn Long]] và [[Gia Khánh]].
Dòng 51:
Việc Lưu Dung gù, không phải là bị tật bẩm sinh mà đến năm 40 tuổi ông mới bị gù. Và chính [[Kỷ Hiểu Lam]] đã đặt cho ông biệt hiệu là '''Lưu La Oa Tử''', nghĩa ''Ông Lưu lưng gù''.
Mặc dù được dân gian gọi là '''Tể tướng Lưu gù''', nhưng ông không làm
== Làm quan ==
Dòng 68:
Năm Càn Long thứ 41 (1776), sau thời gian chịu tang kết thúc, ông được bổ nhiệm làm Nội các Học sĩ tại Nam Thư phòng. Sau đó làm Học chính Giang Tô.
Năm Càn Long thứ 43 (1778), ông được bổ nhiệm về Giang Tô với nhiệm vụ chính dạy học trong huyện Đông Đài, Như Cao. Năm Càn Long thứ 45 (1780), ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ Hồ Nam. Trong thời gian ông đảm nhiệm, ông đã xử lý nhiều vụ án sau đó được làm Tả đô Ngự sử tại Nam Thư phòng đồng thời kiêm Quản lý Quốc
Năm Càn Long thứ 47 (1782), vâng mệnh Hoàng đế Càn Long, ông và [[Hòa Thân]] cùng Tiền Phong thanh tra Tuần phủ Sơn Đông là Quốc Thái tham ô. Quốc Thái hối lộ ông và Tiền Phong nhiều lần nhưng đều bị khước từ. Phát hiện nhiều sai phạm tham ô, Quốc Thái bị xử tử. Sau vụ án, Càn Long bổ nhiệm ông làm Thượng thư Bộ Công, trực tại Thượng Thư phòng.
Năm Càn Long thứ 48 (1783), ông được bổ nhiệm làm Trực Lệ Tổng đốc, sau đó phong làm Hiệp biện Đại học sĩ. Năm Càn Long 54 (1789), do các thầy dạy Hoàng
Năm Càn Long thứ 56 (1791), ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Lễ, sau đó là Thượng thư Bộ Lại.
Dòng 79:
Năm [[Gia Khánh]] thứ 2 (1797), ông được phong làm Thể Nhân các Đại học sĩ.
Năm Gia Khánh thứ 4 (1799), ông được phong Thái tử Thiếu bảo, ông được Gia Khánh Đế chỉ định xử lý vụ án của Văn Hoa điện Đại học sĩ Hòa Thân. Sau khi kiểm tra phát hiện Hòa Thân tham ô 20 tội, xử chém đầu Hoà Thân.
Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), ông được bổ nhiệm làm Chính Tổng tài Hội Điển quán.
|