Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bát kỳ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Kỳ tịch đã được lão sư Quất Huyền Nhã chép rõ. Chấm dứt việc cố ý sửa đổi phá hoại theo suy nghĩ cá nhân Thẻ: Lùi sửa |
|||
Dòng 1:
[[Tập_tin:Emperor_qianlong_blue_banner.jpg|nhỏ|300x300px|Thanh kỳ thời vua Càn Long]]
'''Bát
Đây là một tổ chức quân sự đặc sắc của người Mãn Châu và cũng là đội quân hùng mạnh trong lịch sử Trung Hoa, đã đóng góp công lao to lớn trong cuộc chinh chiến giữa [[nhà Thanh]] và [[nhà Minh]]. Chế độ Bát
== Hình thành ==
[[Tập_tin:清_佚名_《清太祖天命皇帝朝服像》.jpg|thế=|nhỏ|316x316px|Nỗ Nhĩ Cáp Xích, người đã sáng tạo ra chế độ Bát
Vào thời đầu, của người Mãn Châu, hệ thống quân sự Kỳ Binh sinh hoạt trên căn bản hiện hữu từ xưa là Binh Nông Hợp Nhất, tức kết hợp giữa nông dân và binh lính, mỗi nông dân phải phục vụ cho quân đội trong một thời gian đã được quy định trước.
Dòng 37:
Sau khi [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] qua đời, cuộc tranh chấp ngôi vị Đại Hãn nổ ra quyết liệt giữa các vị Hòa thạc Bối lặc. Cuối cùng, dưới sự thỏa hiệp của các Hòa Thạc Bối lặc, [[Hoàng Thái Cực]] lên ngôi Đại Hãn.
Hoàng Thái Cực về danh nghĩa là Đại Hãn (Khan) là thống soái tối cao của Bát
Vì vậy sau khi lên ngôi, [[Hoàng Thái Cực]] lấy lý do Lưỡng Hoàng kỳ vốn thuộc Đại Hãn, đã đem đổi Lưỡng Hoàng kỳ và Lưỡng Bạch kỳ, [[Đa Đạc]] trở thành Kỳ chủ của [[Chính Bạch kỳ]], A Tế Cách và Đa Nhĩ Cổn chia nhau [[Tương Bạch kỳ]]. Về sau, [[Hoàng Thái Cực]] lần lượt hạ bệ [[A Mẫn]] và [[Mãng Cổ Nhĩ Thái]], địa vị của Lưỡng Lam kỳ cũng theo đó mà giảm xuống, cũng từ đó mà hình thành nên thứ tự Lưỡng Hoàng kỳ - Lưỡng Hồng kỳ - Lưỡng Bạch kỳ - Lưỡng Lam kỳ<ref>{{harvnb|杜家骥|2008|p=221,226-227}}</ref>.
Dòng 139:
==== Thuận Trị thân chính ====
Năm thứ 7 ([[1650]]), [[Đa Nhĩ Cổn]] qua đời, [[Thuận Trị Đế]] bắt đầu thân chính. Để tăng cường Hoàng quyền, ông đích thân nắm giữ Chính Bạch kỳ vốn thuộc về Đa Nhĩ Cổn, lại đem Tương Lam kỳ trả cho [[Hào Cách]]. Cũng từ đó, Hoàng
Kỳ tịch của Hoàng
[[Tập_tin:Znamenniemantchur.jpg|thế=|nhỏ|308x308px| Binh lính của Hồng kỳ]]
Danh sách các Kỳ cụ thể như sau:
Dòng 220:
Việc mở rộng về cơ cấu Bát kỳ khiến cho biên chế quân chủ lực của nhà Thanh tăng lên đáng kể, lên đến 170.000 binh sĩ trong thời gian người Mãn Châu xâm chiếm Trung Quốc<ref name="Morton_Lewis_178" />.
Bên cạnh quân Bát kỳ Mãn Châu tinh nhuệ là các chiến binh Mông Cổ với sở trường cơ động thiện chiến và các đội quân người Hán mạnh mẽ về bộ binh và công thành. Vì là người Mãn nên quân Mãn Châu Bát
== Chinh phục nhà Minh ==
[[Tập_tin:Minggunbattle.jpg|thế=|nhỏ|250x250px|[[Trận Sarhū]] hay Trận Tát Nhĩ Hử]]
Vào thế kỷ 17 ở Đông Á, Bát kỳ Mãn châu một đạo quân được xem là hùng mạnh, thiện chiến với những chiến công như đánh bại triều Minh (trong [[trận Tát Nhĩ Hử]]), bình Triều Tiên, nô dịch Mông Cổ, đánh Sa hoàng Nga, nhất thống Trung Quốc. Đội quân này có thể nói là niềm huy hoàng cuối cùng trong quân sự cổ đại Trung Quốc. Trang bị của đạo quân này không quá tối tân nhưng vũ khí tinh thần và sĩ khí của đạo quân này là đáng chú ý nhất. Biên chế quân sự nghiêm ngặt, điều kiện sinh hoạt ác liệt, năng lực sinh tồn mạnh mẽ đã khiến đạo quân này cuối cùng đánh bại triều Minh thống nhất Hoa Hạ.<ref>Xem "Lịch sử đích thiên không" ngày 24 tháng 4 năm 2008 với nhan đề: "lịch sử thượng thập đại thường thắng quân" tại "Shangdu.com" ngày 15 tháng 5 năm 2008, người dịch Nguyễn Duy Chính</ref><ref name="thuvien-ebook.net">Lý Thuyết Quân sự Trung-Hoa, dịch thuật Nguyễn Duy Chính. Nguyễn Duy Chính dịch tại www.thuvien-ebook.net</ref> Đồng thời đạo quân này cũng mang tiếng xấu là xâm lược và tàn bạo, nhà văn Kim Dung trong tác phẩm [[Lộc Đỉnh ký|Lộc đỉnh ký]] cũng có nhắc đến sự tàn bạo, cướp phá của Mãn Châu Bát
Đạo quân này phát triển đông đảo tới gần 200.000 quân của người Mãn Châu và được chia thành 2 phần một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát
Triều đình nhà Thanh có lòng tin rất lớn đối với Bát
Do được triều đình ưu đãi nên lương bổng của Bát
== Cơ cấu tổ chức ==
Dòng 237:
Theo quy định của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, mọi người dân trong các bộ lạc Nữ Chân đều quy thuộc biên chế tổ chức nhân sự vào một trong 8 nhóm bộ lạc, được gọi là các "Kỳ" mà mỗi kỳ này là tập hợp tổ chức các bộ lạc, vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Về căn bản, ông vẫn giữ nguyên hình thức bộ lạc, vẫn duy trì chế độ tù trưởng (mà người Nữ Chân gọi là ''Beile'': âm Hán Việt: Bối lặc), nhưng căn cứ theo số lượng người Nữ Chân có trong các bộ (bộ lạc), phân chia trên cơ sở như sau:<ref name="Morton_Lewis_178">W. Scott Morton và C.M. Lewis, sđd, trang 178</ref><ref name="quangthieu_quangninh">Quang Thiệu - Quang Ninh, sđd.</ref><ref name="10dmlgtq">Mười đại mưu lược gia Trung Quốc, sđd.</ref>
* Cứ 300 nam giới<ref>Tương đương 3 "Trại" trước đó.</ref> được tổ chức thành một ''Ngưu Lộc'' (tiếng Mãn Châu: '''Niru'''). Người đầu mục của niru được gọi là '''Ngưu Lộc Ngạch Chân''', ('''Niru-i Ejen''') (hay còn gọi là Tiển Chủ, danh xưng Hán Việt là Tá
* Cứ 05 Ngưu Lộc hợp lại thành một ''Giáp Lạt'' ('''Jalan''') do một '''Giáp Lạt Ngạch Chân''' ('''Jalan-i Ejen'''), danh xưng Hán Việt là Tham
* Và cứ 05 Giáp Lạt sẽ hợp lại thành một đơn vị gọi là Kỳ hay Cố Sơn ('''Gūsa'''). Chỉ huy một kỳ là một '''Cố Sơn Ngạch Chân''' ('''Gūsa Ejen''') (danh xưng Hán Việt: ''Đô
Ở các kỳ quan trọng còn có thêm 2 đơn vị là ''Mai Lặc'' ('''Meiren''') (phiên âm Hán Việt:), gồm 10 Ngưu lộc hợp thành, do một '''''Mai Lặc Ngạch Chân''''' ('''Meiren-i Ejen'''), danh xưng Hán Việt: ''Phó'' ''Đô thống,'' chỉ huy. Các Mai Lặc Ngạch Chân sẽ giữ vai trò phụ tá cho Kỳ chủ.
Thông thường, các kỳ còn được đặt dưới quyền quản lý của các Bối lặc (Tù trưởng) thân tín của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Các Bối lặc này được xem là có địa vị cao hơn các Bối lặc khác, nên còn được gọi là các Hòa Thạc Bối lặc (Holson Belei).
Dòng 247:
=== Tổ chức hoàn chỉnh ===
[[Tập_tin:乾隆大阅图.jpg|nhỏ|423x423px|Càn Long Đế kiểm duyệt tướng sĩ Bát kỳ]]
Ban đầu, mỗi
Trước khi nhập quan, vì duy trì chế độ phân phong Bát kỳ cho các Lĩnh chủ mà các Kỳ chủ có quyền sở hữu tuyệt đối đối với tài vật và thuộc nhân trong Kỳ của mình quản lý. Nhưng từ sau khi [[Thuận Trị Đế]] đích thân thống lĩnh Thượng
Trong thời Thuận Trị, bắt đầu sử dụng chế độ mới đối với các Vương công, thay thế cho chế độ các Đại kỳ chủ chia đều quyền lực, cũng chấm dứt chế độ "Bát kỳ Nghị chính". Càng về sau, quyền khống chế của các Kỳ chủ đối với quân đội của bản Kỳ cũng dần yếu đi.
Đến thời Ung Chính, để tiến xa hơn một bước trên con đường tăng cường Trung ương tập quyền, [[Ung Chính Đế]] lấy lý do "Thiên hạ không thể có hai mặt trời" hạ chỉ dụ, xác định vị trí "Bát kỳ cộng chủ" (Chủ nhân chung của toàn bộ Bát kỳ) là Hoàng
Năm Ung Chính nguyên niên ([[1723]]), nhà Thanh chính thức thiết lập Nha môn cho Đô thống Bát kỳ, chấm dứt tình trạng các Đô thống "làm việc tại phủ", không có công sở nha môn đã kéo dài trong suốt hơn 100 năm qua.
Dòng 264:
Trong Bát kỳ này lại có sự phân chia thứ bậc nhất định:
* "Thượng Tam kỳ" (上三旗): bao gồm [[Tương Hoàng kỳ]], [[Chính Hoàng kỳ]] và [[Chính Bạch kỳ]]<ref group="Chú thích">Về sau, thời [[Thuận Trị]], Kỳ chủ Chính Bạch Kỳ là Đa Nhĩ Cổn có công lao nhiếp chính nên chuyển thuộc lên Thượng Tam kỳ. Chính Lam kỳ tuy thuộc Hoàng đế nhưng bị chuyển xuống Hạ Ngũ kỳ.</ref>, do Hoàng
* "Hạ Ngũ kỳ" (下五旗): bao gồm [[Chính Hồng kỳ]], [[Tương Bạch kỳ]], [[Tương Hồng kỳ]], [[Chính Lam kỳ]] và [[Tương Lam kỳ]]. Ban đầu được giao cho các Bối lặc thân tín của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, thay mặt Đại Hãn nắm quyền quản lý, và thường được gọi theo nghi thức là "Hòa Thạc" (''Hošoi'', trong tiếng Mãn có nghĩa là "người được đặc biệt tôn kính"''). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội, phụ tá cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích, được gọi là "Hòa Thạc Bối lặc" (Hošoi Beile).'' Về sau, người đứng đầu Hạ Ngũ kỳ là các [[Thiết mạo tử vương]].
Dòng 309:
[[Khánh Thân vương]]
|}
Như vậy, chế độ Bát
Vì chủ nhân trực tiếp của Thượng Tam kỳ là Hoàng
Sau khi nhập quan, các Tông thất Vương công đều được phân vào Hạ
# [[Ba Nhã Lạt]], em trai thứ 5 của [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]]: 1 chi phân vào [[Tương Hoàng kỳ]], 1 chi phân vào [[Tương Bạch kỳ]].
Dòng 326:
Vì vậy, ngoại trừ Giác La - phần lớn đều là "Bất nhập bát phân", còn lại 8 chi Tông thất trong Thượng Tam kỳ đều là vì xuất thân quá thấp.
Trên thực tế, việc phân chia "Thượng Tam kỳ" với "Hạ Ngũ kỳ" chỉ ảnh hưởng đến Kỳ phân của Tông thất và tầng lớp [[Bao y|Bao y Tá lĩnh]], còn lại không ảnh hưởng trực tiếp đến các Kỳ nhân thông thường. Bao y Tá lĩnh thuộc Nội vụ phủ chủ yếu phục vụ cho Cung đình, còn Bao y Tá lĩnh thuộc Hạ
== Dân cư ==
=== Tộc duệ ===
Trên cơ bản, Bát kỳ chia làm 3 tộc phân chính là Mãn Châu Bát kỳ, Mông Cổ Bát kỳ và Hán
Những người vốn là người Hán (hay còn gọi là Ni Kham trong tiếng Mãn), một phần được phân vào Hán quân Bát kỳ, một phần khác lại được phân vào Nội vụ phủ [[Kỳ cổ Tá lĩnh]], một bộ phận nhỏ khác lại được phân vào Mãn Châu Bát kỳ.
Dòng 362:
=== Tầng lớp ===
Trong Bát kỳ, có thể chia làm 3 tầng lớp cơ bản: Ngoại Bát kỳ, Nội Bát kỳ (tức [[Bao y]]) và Kỳ hạ Gia nô. Ngoại Bát kỳ chính là tức [[Kỳ phân Tá lĩnh]] trong Bát kỳ, nguyên là những người tự do thời Thanh trước khi nhập quan, cũng là một giai tầng phổ biến nhất của người Bát
Nội Bát kỳ chính là [[Bao y]], là tầng lớp phục vụ cho Hoàng thất [[Ái Tân Giác La]], tức là [[Hoàng đế]] và các Kỳ chủ, Lĩnh chủ, Tông thất Vương công khác. Tuy nhiên, ngoài việc túc trực phục vụ Hoàng thất, thì Bao y là giai cấp có địa vị trong xã hội Mãn Châu, ngang bằng với tầng lớp Ngoại Bát kỳ, đều có hộ tịch chính thức và căn cứ theo "Luật lệ Đại Thanh", họ đều được xem là ''"lương dân"'' trong xã hội. Thượng Tam kỳ Bao y trực thuộc [[Nội vụ phủ]], vì vậy thường gọi là Nội vụ phủ Bao y. Người thuộc tầng lớp Bao y cũng là người Bát kỳ chân chính, bọn họ cũng có thể có nô gia của riêng mình, chính là tầng lớp [[Kỳ hạ Gia nô]] (旗下家奴). Những người vốn thuộc tầng lớp Bao y cũng có thể được phân vào [[Kỳ phân Tá lĩnh]] nhờ công lao hoặc là người nhà của Hậu phi, thường là quy vào Mãn Châu hoặc Hán quân Bổn kỳ (tức Bao y Tương Hoàng kỳ thì nâng lên Mãn Châu Tương Hoàng kỳ hoặc Hán quân Tương Hoàng kỳ), trường hợp này được gọi là "Xuất kỳ", cũng là một loại của "Đài kỳ". Tầng lớp này chia làm Bao y Tá lĩnh, Bao y [[Kỳ cổ Tá lĩnh]] và Bao y Quản lĩnh, trong đó Bao y Tá lĩnh còn có thể được gọi là Bao y Mãn Châu Tá lĩnh để phân biệt.
Dòng 404:
Quan binh trong Bát kỳ, về mặt hành chính đề do Đô thống Nha môn của Kỳ đó quản lý, có chiến sự thì xuất binh, không có chiến sự thì lập tức rút về Kinh thành, là lực lượng cơ bản của quân đội nhà Thanh. Binh sĩ của Cấm lữ Bát kỳ vào thời Thuận Trị là 8 vạn, thời Khang Hi là 10 vạn, đến thời Thanh Mạt, có chức quan là 6680 người, binh lính là hơn 12 vạn.
Thể chế của "Cấm lữ Bát kỳ" là dựa theo binh chủng khác nhau mà thành lập các doanh khác nhau, lần lượt là Thân quân, Kiêu kỵ (Mã giáp), Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân (Bộ giáp). Trong đó, Kiêu kị doanh, Hộ quân doanh, và Bộ quân doanh đều án theo từng Kỳ mà thiết lập; Tiền phong doanh án theo Tả - Hữu dực để thiết lập; Hộ quân doanh và Tiền phong doanh là Cảnh vệ cung cấm, lúc Hoàng
Sau đó lại từ các Doanh trên tuyển chọn ra Thần cơ doanh, từ trong Tiền phong doanh tuyển chọn ra Kiện duệ doanh, từ Hán quân của Kiêu kị doanh tuyển ra Thương doanh, Pháo doanh các loại, từ quân Mãn - Mông có luyện tập hỏa khí tuyển chọn ra Hỏa khí doanh, chính là lính đặc chủng.
Từ thời Khang Hi, quân Bát kỳ từng bước di cư ra khỏi thành Bắc Kinh, nguyên nhân là vì sự xuất hiện của [[Viên Minh Viên]], liền phải điều quan viên Bát kỳ trong Kinh thành đến nơi này để bảo vệ. Sau khi Viên Minh Viên hoàn thành, các đời Hoàng
* [[Tương Hoàng kỳ]]: phía tây Thụ thôn, phía sau Viên Minh Viên
Dòng 471:
|1000 quân
Đều là Hán quân Bát kỳ, về sau có tăng thêm
|Bộ hạ cũ của Cảnh thị - một thế lực trong [[Loạn Tam Phiên|Tam phiên]]. Bộ hạ cũ của Cảnh Tinh Tinh sau khi đầu hàng được đãi<ref group="Chú thích">Đãi chúc (隶属), nghĩa là chịu sự quản lý</ref> vào Hán quân Thượng
|-
|[[Quảng Châu]]
Dòng 479:
|3000 quân đều thuộc Hán quân Bát kỳ:
* 1125 quân thuộc Thượng
* 1875 quân thuộc Hạ
|Bộ hạ của của Thượng thị - một thế lực trong [[Loạn Tam Phiên|Tam phiên]]. Bộ hạ cũ của Thượng Khả Hỉ sau khi đầu hàng được đãi vào Hán quân Thượng
|-
|[[Kinh Châu]]
Dòng 568:
|1 Đô thống
(Nhiệt Hà Đô thống)
|3600 quân Mãn - Mông
*[[Tị Thử Sơn Trang]]: 2000 quân
Dòng 641:
Quân Bát kỳ đóng ở các tỉnh thường trên 2000 người, đứng đầu là Tướng quân, tổng cộng 13 vị, đều Tòng Nhất phẩm.
Chức Đô thống và Tướng quân trú phòng đều do các Vương công Tông thất hoặc các đại thần thân tín của Hoàng
|-
|Phó Đô thống
Dòng 691:
| rowspan="3" |1151
| rowspan="3" |Chính Tứ phẩm
| rowspan="3" |Đô thống, Phó Đô thống đều không thế tập, do đích thân Hoàng
|-
|Mông Cổ
Dòng 805:
Giáp Lạt Chương Kinh, 「甲喇章京」
|Đồn trú ở Kinh sư
|Chưởng quản sự vụ của Thượng
|-
|Thành thủ Úy
Dòng 857:
|Một trong các lực lượng [[Cấm vệ quân]] thời Thanh, bắt đầu từ "Ba Nha Lạt doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời [[Hoàng Thái Cực]].
Thượng
Hạ
Thời Ung Chính đổi thành "Quân ti Cấm vệ". Các nhân viên đều điều từ Mãn - Mông Bát kỳ. Mỗi kỳ thiếp lập 1 [[Hộ quân Thống lĩnh]] (''tui janggin'').
Dòng 869:
Tuyển từ Mãn - Mông Bát kỳ những binh sĩ tinh nhuệ có thân thể khỏe mạnh, kỹ nghệ ưu tú, lập nên một doanh độc lập.
Những hoạt động đi tuần thời Thanh rất nhiều, Tiền phong doanh phụ trách làm quân tiền tiêu cảnh vệ mỗi khi Hoàng
|-
|Kiện duệ doanh
Dòng 881:
|Hỏa khí doanh
|Một trong các lực lượng quân đội Kinh sư thời Thanh. Vì nhu cầu dẹp Loạn Tam phiên, Khang Hi Đế cực kỳ coi trọng kỷ thuật hỏa pháo.
Năm [[1691]], quy định toàn bộ doanh quân đều phải luyện tập Hỏa pháo, lại khuếch trưởng theo thủ vệ của Hoàng
Quân trong doanh được tuyển chọn từ tất cả các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ, tổng cộng quản lý gần 8000 quan binh.
Dòng 896:
|Một trong các lực lượng [[Cấm vệ quân]] thời Thanh, thiết lập vào năm Hàm Phong thứ 11 ([[1861]]).
Chức trách chủ yếu là thủ vệ 3 hồ lớn của Bắc Kinh (Trung Nam Hải, Bắc Hải và Thập Sát Hải) và theo Hoàng
Quân trong Thần cơ doanh đều tuyển chọn những người võ nghệ cao cường từ các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ và các doanh Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân, Kiện duệ,...
Dòng 930:
|Hoàng đế
|Không có
|Có một khoảng thời gian ngắn [[Đa Đạc]] trở thành Kỳ chủ, cũng là Tông thất (không phải Hoàng
|-
|Chính Hoàng kỳ
Dòng 948:
|Hoàng đế
|Không có
|Những năm đầu Thuận Trị, kỳ chủ là Duệ Thân vương [[Đa Nhĩ Cổn]]. Sau khi Đa Nhĩ Cổn mất, Thuận Trị liền tiếp quản, đến tận khi từ Hạ
|-
|Chính Hồng kỳ
Dòng 997:
Tuy vậy cuối cùng đạo quân này cũng lại gặp phải bi kịch của đại quân Mông Cổ, đó là sức chiến đấu ngày càng giảm đi sau khi giành được thiên hạ. Những nguyên nhân có thể kể ra như:
* Sau khi chiếm lĩnh được Trung Nguyên, [[Nhà Thanh]] bố trí Bát
* Quân Bát
* Mặt khác, lương bổng quá thấp khiến việc tuyển mộ khó khăn và tạo ra hiện tượng lính ma, lính kiểng, việc chạy chức, chạy quyền các chức vụ chỉ huy trong Lục Doanh đã xảy ra. Vì vậy phẩm chất tướng lãnh xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc lao động kiếm tiền. Quan binh tham nhũng, ăn chặn lương bổng khiến binh sĩ mang tâm lý bất mãn đối với triều đình, không muốn liều mạng đổ máu cho triều đình và quan lại, khi có chiến sự chỉ lo bảo toàn tính mạng, hiếm khi xung phong hãm trận.
* Quân Bát
* Đến đầu thế kỷ 19 thì Trung Quốc còn gặp họa [[thuốc phiện]] do phương Tây đưa vào. Nhiều tướng sỹ nghiện thuốc phiện, thể chất và trí lực trở nên yếu ớt, bệnh hoạn, không còn sức chiến đấu khi ra trận. [[Lâm Tắc Từ]] từng dâng tấu cho vua [[Đạo Quang]] nói về tác hại của thuốc phiện: ''“Thuốc phiện nếu không cấm tuyệt, thì nước mỗi ngày một nghèo, dân mỗi ngày một yếu; chỉ hơn chục năm sau, nước nhà không còn quân mạnh để ngự địch, không có bạc nén để lo quân lương”''.
Bát
Đến thời [[Càn Long]], quân Bát
Đến thời [[Đạo Quang]], nhà vua từng thao duyệt hỏa khí doanh Bát kỳ ở kinh sư, là binh chủng chuyên về hỏa khí khi đó, trước giờ vẫn xưng là tinh hoa của Bát kỳ, kết quả là đa phần đại pháo bắn không trúng bia, đạn thì có viên bay nửa chừng rớt xuống đất. Quân Thanh giữ Sơn Hải quan bị thiếu hụt đại pháo giữ ải, phải lấy pháo cũ đã bỏ đi từ thời nhà Minh 200 năm trước đó để dự phòng. Vào giữa thế kỷ 19, các nước phương Tây đã bắt đầu dùng các loại vũ khí tân tiến như súng trường có rãnh xoắn, súng liên thanh, lựu đạn và địa lôi. Nhưng quân Thanh trong Chiến tranh Nha phiến 1840 vẫn tiếp tục dùng súng điểu thương, giáo gươm, cung tên giống như hồi thế kỷ 17.
Dòng 1.011:
Trong [[Chiến tranh nha phiến]] năm 1841, quân Anh chỉ điều động hơn 2 vạn người, còn nhà Thanh đã điều động tới hơn 10 vạn quân trú phòng ở các tỉnh, các tỉnh duyên hải còn chiêu mộ một số lượng lớn hương dũng để bố phòng, hao tổn hết hơn 20 triệu lạng bạc, vậy mà không thắng nổi một trận lớn nào. Chiến tranh nha phiến càng bộc lộ sự hủ bại của quân đội nhà Thanh: tuy xuất hiện một số gương tướng lĩnh trung quân ái quốc, quên mình hy sinh vì nước như [[Lâm Tắc Từ]], [[Quan Thiên Bồi]], nhưng về đại thể thì năng lực của đa số tướng soái đều tầm thường, nhiều nơi binh sỹ thấy địch thì tháo chạy.
Ngoài quân Bát
Trong Khởi nghĩa [[Thái Bình Thiên quốc]] (1851), quân Bát
Nhà Thanh phải chấp nhận nhiều đội quân "Dũng binh" kiểu mới ra đời để cứu vãn như [[Tương quân]] của [[Tăng Quốc Phiên]], Sở quân của [[Tả Tông Đường]], Hoài quân của [[Lý Hồng Chương]] và đạo quân đánh thuê nước ngoài [[Thường Thắng Quân|Thường Thắng quân]].<ref name="thuvien-ebook.net" /> Súng trường được du nhập vào Trung Hoa do Thường Thắng Quân của F. T. Ward và C. G. Gordon chỉ huy hồi thập niên 1860 khi họ giúp triều đình chống lại quân Thái Bình Thiên quốc nhưng chưa được trang bị (đại trà) cho quân đội Trung Hoa. Hoài Quân (Huaijun) của Lý Hồng Chương có lẽ là lực lượng đầu tiên dùng các vũ khí mới này vào đầu thập niên 1860. Tuy nhiên, mãi đến thập niên 1880 súng trường mới là vũ khí tiêu chuẩn cho quân đội Trung Hoa. Bát
== Sách ==
|