Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bát kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 214:
Lúc mới hình thành Bát kỳ, trong tên gọi Kỳ không hề phân chia dân tộc (Mãn - Mông - Hán). Đến năm [[1629]], sau khi [[Hoàng Thái Cực]] lên ngôi mới thấy có sự xuất hiện của ghi chép về hai kỳ thuộc [[Mông Cổ]].
 
Năm [[1635]], sau khi Hậu Kim chinh phục Sát Cáp Nhĩ bộ đã tiến hành một cuộc sắp xếp biên chế quy mô lớn đối với đông đảo tráng niên Mông Cổ, bắt đầu hình thành nên Mông Cổ Bát kỳ<ref>"Đại Thanh Thái tông Văn Hoàng đế thực lục", quyển 22.</ref>. Còn về Hán quânQuân Bát kỳ, vốn là sau khi quân Hậu Kim tiến vào cùng [[Liêu Ninh]] - [[Thẩm Dương]], bắt và thu hàng được rất đông quân nhân người Hán, dùng hình thức nô bộc phân chia cho các Bối lặc, Đại thần.
 
Sau khi Hoàng Thái Cực lên ngôi, đã biên tổ Hán quânQuân Ngưu lộc, dùng khoa cử, đề cử học sinh các loại để đề cao đãi ngộ của những người Hán này, khiến họ thoát khỏi thân phận nô bộc, trở thành người có hộ khẩu Kỳ tịch. Kỳ Hán quânQuân đầu tiên xuất hiện vào năm [[1631]], sau đó tách làm hai màu Đen - Xanh vào năm [[1637]], đến năm [[1639]] thì tách làm bốn kỳ. Đến năm [[1642]], tổ chức lại các Ngưu lộc Hán quânQuân, phân vào Tám kỳ, Hán quânQuân Bát kỳ<ref name="10dmlgtq" /> chính thức trở thành một bộ phận của Bát kỳ.
 
Việc mở rộng về cơ cấu Bát kỳ khiến cho biên chế quân chủ lực của nhà Thanh tăng lên đáng kể, lên đến 170.000 binh sĩ trong thời gian người Mãn Châu xâm chiếm Trung Quốc<ref name="Morton_Lewis_178" />.
Dòng 224:
== Chinh phục nhà Minh ==
[[Tập_tin:Minggunbattle.jpg|thế=|nhỏ|250x250px|[[Trận Sarhū]] hay Trận Tát Nhĩ Hử]]
Vào thế kỷ 17 ở Đông Á, Bát kỳ Mãn châuChâu một đạo quân được xem là hùng mạnh, thiện chiến với những chiến công như đánh bại triều Minh (trong [[trận Tát Nhĩ Hử]]), bình Triều Tiên, nô dịch Mông Cổ, đánh Sa hoàng Nga, nhất thống Trung Quốc. Đội quân này có thể nói là niềm huy hoàng cuối cùng trong quân sự cổ đại Trung Quốc. Trang bị của đạo quân này không quá tối tân nhưng vũ khí tinh thần và sĩ khí của đạo quân này là đáng chú ý nhất. Biên chế quân sự nghiêm ngặt, điều kiện sinh hoạt ác liệt, năng lực sinh tồn mạnh mẽ đã khiến đạo quân này cuối cùng đánh bại triều Minh thống nhất Hoa Hạ.<ref>Xem "Lịch sử đích thiên không" ngày 24 tháng 4 năm 2008 với nhan đề: "lịch sử thượng thập đại thường thắng quân" tại "Shangdu.com" ngày 15 tháng 5 năm 2008, người dịch Nguyễn Duy Chính</ref><ref name="thuvien-ebook.net">Lý Thuyết Quân sự Trung-Hoa, dịch thuật Nguyễn Duy Chính. Nguyễn Duy Chính dịch tại www.thuvien-ebook.net</ref> Đồng thời đạo quân này cũng mang tiếng xấu là xâm lược và tàn bạo, nhà văn Kim Dung trong tác phẩm [[Lộc Đỉnh ký|Lộc đỉnh ký]] cũng có nhắc đến sự tàn bạo, cướp phá của Mãn Châu Bát kỳ.<ref>Vũ Đức Sao Biển, ''Kim Dung giữa đời tôi- Toàn tập'',(tái bản lần thứ tư), Nhà xuất bản trẻ, [[thành phố Hồ Chí Minh]], năm [[2010]]</ref>
 
Đạo quân này phát triển đông đảo tới gần 200.000 quân của người Mãn Châu và được chia thành 2 phần một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát kỳ (禁旅八旗 Jìnlǚ Bāqí) đóng quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là [[Bát Kỳ#Trú phòng Bát kỳ|Trú Phòng Bát kỳ]] (駐防八旗 Zhùfáng Bāqí). Ngoài ra, việc phân chia Mãn tộc Bát kỳ, Mông Cổ Bát kỳ và Hán tộc Bát kỳ một cách rõ ràng còn là vấn đề của hậu cung Thanh triều. Các tú nữ, phi tần, cung nữ trong hậu cung tuy được tuyển từ cả ba tộc, nhưng vẫn ưu tiên Mãn tộc làm gốc, kế là Mông và cuối là Hán. Hoàng Hậu các đời đều xuất thân từ Mãn - Mông (xem thêm [[Hậu cung nhà Thanh]]).
Dòng 331:
 
=== Tộc duệ ===
Trên cơ bản, Bát kỳ chia làm 3 tộc phân chính là Mãn Châu Bát kỳ, Mông Cổ Bát kỳ và Hán Quân Bát kỳ, nhưng cụ thể mà nói thì rất phức tạp. Tộc duệ của Bát kỳ lấy Mãn Châu làm trung tâm, bộ phận chinh là Mông Cổ và Hán quânQuân, ngoài ra còn có [[Cao Ly]], [[Sách Luân]], [[Người Xibe|Tích Bá]], [[Người Hồi|Hồi]] và [[Nga la tư|Nga La Tư]].
 
Những người vốn là người Hán (hay còn gọi là Ni Kham trong tiếng Mãn), một phần được phân vào Hán quânQuân Bát kỳ, một phần khác lại được phân vào Nội vụ phủ [[Kỳ cổ Tá lĩnh]], một bộ phận nhỏ khác lại được phân vào Mãn Châu Bát kỳ.
 
Những người vốn là người Mông Cổ, chủ yếu được phân vào Mông Cổ Bát kỳ, một bộ phận nhỏ được phân vào Mãn Châu Bát kỳ, một bộ phận cực nhỏ khác từng làm quan thời Minh thì được phân vào Hán quânQuân Bát kỳ.
 
Những người vốn là người Cao Ly, một phần nhỏ được phân vào Kỳ phân Tá lĩnh của Mãn Châu Bát kỳ, còn phần lớn đều phân vào tầng lớp Bao y dưới Nội vụ phủ Cao Ly Tá lĩnh.
Dòng 343:
Những người Hồi phần lớn đều là người thuộc Hòa Trác thị đến Kinh sư vào những năm Càn Long.
 
Những người [[Nga]] như A Nhĩ Ba Tân quy phụ Đại Thanh vào những năm Thuận Trị, Khang Hi, được phân vào "Tương Hoàng kỳ Mãn Châu đệ tứ Tham lĩnh đệ thập thất Tá lĩnh", tục xưng "Nga laLa Tá lĩnh".
 
==== Nga La Tư Tá lĩnh ====
Năm Khang Hi thứ 24 ([[1685]]), sau thất bại tại cuộc chiến Nhã Khắc Tát, quân đội Sa Hoàng xâm lược có 101 người bị áp giải đến Bắc Kinh. Trong thời Khang Hi, tiêu chuẩn định ngạch của Bát kỳ Mãn Châu Tá lĩnh (tức Bao y Tá lĩnh) là 100 người. Mà những người Nga được đưa tới Bắc Kinh này, vừa vặn đủ điều kiện.
 
Năm 1685, triều đình nhà Thanh chính thức ban bố mệnh lệnh, đám người A Nhĩ Ba Tân này được phân vào quân bảo vệ Kinh kỳ của [[Tương Hoàng kỳ]], thuộc vào "Tương Hoàng kỳ Mãn Châu đệ tứ Tham lĩnh đệ thập thất Tá lĩnh", đóng quân ở ngõ nhỏ Hồ Gia Viên bên ngoài Đông Trực môn.
Dòng 364:
Trong Bát kỳ, có thể chia làm 3 tầng lớp cơ bản: Ngoại Bát kỳ, Nội Bát kỳ (tức [[Bao y]]) và Kỳ hạ Gia nô. Ngoại Bát kỳ chính là tức [[Kỳ phân Tá lĩnh]] trong Bát kỳ, nguyên là những người tự do thời Thanh trước khi nhập quan, cũng là một giai tầng phổ biến nhất của người Bát kỳ. Từ hậu duệ Quý tộc, hào môn thế gia, đến các con em Bát kỳ bình thường, ở giữa mặc dù có nhiều cấp bậc tước vị khác nhau, nhưng đều thuộc vào tầng lớp này. Tầng lớp này được chia ra 3 phân hệ Bát kỳ chính là [[Mãn Châu Bát kỳ|Mãn Châu]], [[Mông Cổ Bát kỳ|Mông Cổ]] và [[Hán Quân Bát kỳ|Hán Quân]].
 
Nội Bát kỳ chính là [[Bao y]], là tầng lớp phục vụ cho Hoàng thất [[Ái Tân Giác La]], tức là [[Hoàng đế]] và các Kỳ chủ, Lĩnh chủ, Tông thất Vương công khác. Tuy nhiên, ngoài việc túc trực phục vụ Hoàng thất, thì Bao y là giai cấp có địa vị trong xã hội Mãn Châu, ngang bằng với tầng lớp Ngoại Bát kỳ, đều có hộ tịch chính thức và căn cứ theo "Luật lệ Đại Thanh", họ đều được xem là ''"lương dân"'' trong xã hội. Thượng Tam kỳ Bao y trực thuộc [[Nội vụ phủ]], vì vậy thường gọi là Nội vụ phủ Bao y. Người thuộc tầng lớp Bao y cũng là người Bát kỳ chân chính, bọn họ cũng có thể có nô gia của riêng mình như những người Kỳ phân Tá lĩnh, chính là tầng lớp [[Kỳ hạ Gia nô]] (旗下家奴). Những người vốn thuộc tầng lớp Bao y cũng có thể được phân vào [[Kỳ phân Tá lĩnh]] nhờ công lao hoặc là người nhà của Hậu phi đắc sủng, thường là quy vào Mãn Châu hoặc Hán quânQuân Bổn kỳ (tức Bao y Tương Hoàng kỳ thì nâng lên Mãn Châu Tương Hoàng kỳ hoặc Hán quânQuân Tương Hoàng kỳ), trường hợp này được gọi là "Xuất kỳ", cũng là một loại của "Đài kỳ". Tầng lớp này chia làm Bao y Tá lĩnh, Bao y [[Kỳ cổ Tá lĩnh]] và Bao y Quản lĩnh, trong đó Bao y Tá lĩnh còn có thể được gọi là Bao y Mãn Châu Tá lĩnh để phân biệt.
 
Kỳ hạ Gia nô chính là gia bộc của Bát kỳ Đại thần và những Kỳ nhân phổ thông khác, bọn họ không có hộ tịch độc lập mà thuộc về dưới danh nghĩa của chủ nhân, vì vậy mà bị xưng là "Hộ hạ nhân" hoặc "Bát kỳ hộ hạ Gia nhân". Theo "Luật lệ Đại thanhThanh", tầng lớp Kỳ hạ Gia nô thuộc về tầng lớp "''tiện dân''" trong xã hội, hoàn toàn không được tham gia khoa cử, hoặc xuất sĩ làm quan. Thời Thanh sơ, cho dù là binh lính Bát kỳ thông thường cũng có đông đảo Gia nô, phần đông trong số đó đều theo chủ nhân chinh chiến. Sau khi lập được chiến công, có khả năng sẽ được lập hộ tịch, trở thành "Khai hộ nhân", mặc dù tốt hơn so với Kỳ hạ Gia nô, nhưng chung quy vẫn thấp hơn so với người Bát kỳ, trong việc tuyển chọn binh lính, cũng chỉ có thể đảm nhậm những vị trí cực thấp. Thời Thanh trung - hậu kỳ, kế sinh nhai của người Bát kỳ càng lúc càng hiện ra vấn đề, phần đông Kỳ hạ Gia nô bị thả ra, hoặc bán cho những người Hán có tiền, rất nhiều Kỳ nhân không còn tiếp tục sở hữu Gia nô. Mà phần lớn "Khai hộ nhân" cũng được Càn Long cho "Xuất kỳ", tuy nhiên một bộ phận nhỏ "Khai hộ nhân" tồn tại đã lâu, không thể tra nguồn gốc nên không thể đưa vào hàng ngũ Bát kỳ.
 
=== Nhân khẩu ===
Đặc thù của chế độ Bát kỳ là lấy Kỳ quản lý người, cũng là lấy Kỳ quản lý binh. Phàm là người được đãi vào một Kỳ đều có thể làm binh. Tuy nhiên, hạn ngạch binh lính của nhà Thanh là có giới hạn, theo số lượng người Mãn càng lúc càng tăng, không phải người Mãn nào cũng được mặtmặc giáp, mà càng về sau tỉ lệ người Mãn được mặc giáp càng ngày càng thấp.
 
Thời [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]], [[Hoàng Thái Cực]], tổ chức Bát kỳ phát triển tương đối nhanh. Trước khi nhập quan, Mãn Châu Bát kỳ có 309 Tá lĩnh, 18 Bán phân Tá lĩnh; Mông Cổ Bát kỳ có 117 Tá lĩnh, 5 Bán phân Tá lĩnh; Hán quânQuân Bát kỳ có 157 Tá lĩnh, 5 Bán phân Tá lĩnh; Mãn - Mông - Hán Bát kỳ tổng cộng 583 Tá lĩnh, 28 Bán phân Tá lĩnh.
 
Thời kỳ đầu sau nhập quan, do nhu cầu chiến tranh thống nhất Trung Quốc và bình định các cuộc nổi dậy phản Thanh, Mãn Châu Bát kỳ phát triển nhanh chóng.
Dòng 378:
 
* Mông Cổ Bát kỳ tăng thêm 11 Tá lĩnh thời Thuận Trị, 76 Tá lĩnh thời Khang Hi và chính thức định chế tổng cộng 204 Tá lĩnh vào năm Ung Chính thứ 2 ([[1724]]). Lúc mới lập ra Bát kỳ, có một số lượng người Mông Cổ được phân vào Mãn Châu Bát kỳ, tính đến thời Thanh mạt thì có 35 Tá lính và 2 Bán phân Tá lĩnh vốn là người Mông Cổ nhưng lại xếp vào Mãn Châu Bát kỳ.
* Hán quânQuân Bát kỳ có tất cả 206 Tá lĩnh và 3 Bán phân tá lĩnh vào năm Thuận Trị thứ 15 ([[1658]]). Đến năm Khang Hi thứ 51 ([[1712]]) tăng đến 258 Tá lĩnh, 1 Bán phân Tá lĩnh. Đến năm Ung Chính thứ 12 ([[1734]]), chính thức định chế 270 Tá lĩnh. Về sau, vì kế sinh nhai của Bát kỳ càng lúc càng khó khăn, một bộ phận người thuộc Hán quânQuân đã xuất kỳ, trở thành dân nhân<ref group="Chú thích">Vì chế độ Bát kỳ của nhà Thanh mà người dân chia làm 2 loại chính là "Kỳ nhân" - người thuộc Bát kỳ (hoặc Minh kỳ của Mông Cổ) và "Dân nhân" - người không thuộc Bát kỳ, là dân đen, thân phận thấp.</ref>. Đến năm Càn Long thứ 15 ([[1790]]), Hán quânQuân Tá lĩnh giảm còn 266, từ đó về sau không thay đổi nữa.
 
== Quân đội ==
Dòng 388:
Nhà Thanh thực hiện chế độ chia dân cư theo từng thành để sinh sống, án theo quy hoạch đại bản doanh đem Bát kỳ chia làm 2 là Tả dực (cánh trái, gồm [[Tương Hoàng kỳ]], [[Chính Bạch kỳ]], [[Tương Bạch kỳ]], [[Chính Lam kỳ]]) và Hữu dực (cánh phải, [[Chính Hoàng kỳ]], [[Chính Hồng kỳ]], [[Tương Hồng kỳ]], [[Tương Lam kỳ]]) để đóng quân trong nội thành Bắc Kinh, Hoàng thành và các địa phương bên ngoài.[[Tập tin:The Inner City of Beijing in 1805.jpg|nhỏ|Phân bố quân trú phòng Kinh thành|325x325px]]Quân cánh trái đóng ở thành Đông Bắc, lần lượt phân biệt đóng quân trong:
 
* An Định Mônmôn: [[Tương Hoàng kỳ]]
* Đông Trực môn: [[Chính Bạch kỳ]]
* Triêu Dương môn: [[Tương Bạch kỳ]]
Dòng 402:
Từ đây về sau, vị trí trú phòng của Bát kỳ trong thành Bắc Kinh không hề xảy ra biến hóa, dù cho càng về sau, tính chất "Đại bản doanh Bát kỳ" của thành Bắc Kinh không còn như trước.
 
Quan binh trong Bát kỳ, về mặt hành chính đềđều do Đô thống Nha môn của Kỳ đó quản lý, có chiến sự thì xuất binh, không có chiến sự thì lập tức rút về Kinh thành, là lực lượng cơ bản của quân đội nhà Thanh. Binh sĩ của Cấm lữ Bát kỳ vào thời Thuận Trị là 8 vạn, thời Khang Hi là 10 vạn, đến thời Thanh Mạt, có chức quan là 6680 người, binh lính là hơn 12 vạn.
 
Thể chế của "Cấm lữ Bát kỳ" là dựa theo binh chủng khác nhau mà thành lập các doanh khác nhau, lần lượt là Thân quân, Kiêu kỵ (Mã giáp), Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân (Bộ giáp). Trong đó, Kiêu kị doanh, Hộ quân doanh, và Bộ quân doanh đều án theo từng Kỳ mà thiết lập; Tiền phong doanh án theo Tả - Hữu dực để thiết lập; Hộ quân doanh và Tiền phong doanh là Cảnh vệ cung cấm, lúc Hoàng đế ra ngoài thì làm tùy tùng đi theo, là thành phần tinh nhuệ trong quân đội Bát kỳ.
 
Sau đó lại từ các Doanh trên tuyển chọn ra Thần cơ doanh, từ trong Tiền phong doanh tuyển chọn ra Kiện duệ doanh, từ Hán quânQuân của Kiêu kị doanh tuyển ra Thương doanh, Pháo doanh các loại, từ quân Mãn - Mông có luyện tập hỏa khí tuyển chọn ra Hỏa khí doanh, chính là lính đặc chủng.
 
Từ thời Khang Hi, quân Bát kỳ từng bước di cư ra khỏi thành Bắc Kinh, nguyên nhân là vì sự xuất hiện của [[Viên Minh Viên|Viên Minh viên]], liền phải điều quan viên Bát kỳ trong Kinh thành đến nơi này để bảo vệ. Sau khi Viên Minh Viênviên hoàn thành, các đời Hoàng đế thường xuyên ở lại đây vài tháng, vì vậy trên thực tế, Viên Minh Viênviên là một tòa Hoàng cung thứ hai. Vì để bảo vệ sự an toàn của Viên Minh Viên, vào năm Ung Chính thứ 2 ([[1724]]), triều đình đã lên kế hoạch thiết lập Hộ quân doanh ở đây:
 
* [[Tương Hoàng kỳ]]: phía tây Thụ thôn, phía sau Viên Minh Viên
Dòng 423:
===== Kinh sư Trú phòng =====
Quân trú phòng Kinh kỳ chia làm nhiều loại, đều là theo nơi đóng quân, như [[Thuận Nghĩa]], [[Xương Bình]], Tam Hà hay Lương Hương, đều là những địa phương ngay gần thành Bắc Kinh. Trên thực tế, đội quân này là hộ vệ bên ngoài của Kinh thành. Những nơi đóng giữ xa hơn như [[Bảo Định]], [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], [[Thương Châu, Hà Bắc|Thương Châu]], [[Đức Châu]], đều là những con đường giao thông quan trọng từ Bắc Kinh đến các địa phương khác.
 
Ban đầu, nhà Thanh chủ yếu tập trung bố trí lực lượng phòng thủ ở phía Nam, đặc biệt là Đông Nam. Về sau, đến nửa sau những năm Khang Hi, thế lực [[Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc|Chuẩn Cát Nhĩ]] quật khởi, vì vậy Khang Hi Đế bắt đầu tăng cường lực lượng phòng thủ ở phía Bắc.
 
===== Địa phương Trú phòng =====
[[Tập tin:杭州驻防图.jpg|nhỏ|461x461px|Nằm ở phía Tây thành Hàng Châu, là thành của Doanh trú phòng ở giữa Tiễn Đường môn và Dũng Kim môn, bắt đầu xây dựng vào năm Thuận Trị thứ 5 ([[1648]])]]
Để có thể khống chế tốt lãnh thổ rộng lớn, nhà Thanh phân một bộ phận lớn quân Bát kỳ đến các địa phương đóng giữ, xưng là "Trú phòng Bát kỳ". Ban đầu, để đề phòng nhà Nam Minh và các thế lực phản Thanh phục Minh, nhà Thanh chủ yếu tập trung bố trí lực lượng phòng thủ ở phía Nam, đặc biệt là Đông Nam. Về sau, đến nửa sau những năm Khang Hi, thế lực [[Chuẩn Cát Nhĩ Hãn quốc|Chuẩn Cát Nhĩ]] quật khởi, vì vậy Khang Hi Đế bắt đầu tăng cường lực lượng phòng thủ ở phía Bắc. Chế độ Trú phòng Bát kỳ bắt đầu từ triều Thuận Trị, mở rộng và phát triển trong hai triều Khang - Ung, đến thời Càn Long thì hình thành định chế.
Chế độ Trú phòng Bát kỳ bắt đầu từ triều Thuận Trị, mở rộng và phát triển trong hai triều Khang - Ung, đến thời Càn Long thì hình thành định chế.
 
Giữa những năm Thuận Trị, quân Bát kỳ Trú phòng ở các địa phương chỉ vẻn vẹn hơn 15 ngàn quân, đến thời Khang - Ung thì dần tăng lên hơn 9 vạn quân, đến Thanh trung kỳ thì đạt hơn 10 vạn, cũng từ đó mà binh ngạch của Bát kỳ Trú phòng về cơ bản ngang hàng với Kinh kỳ, kéo dài đến tận thời Thanh mạt. Đến thời Khang - Càn, nơi trú phòng của quân Bát kỳ ở Mãn Châu tăng từ 15 lên 44 nơi, tại các tỉnh khác thì tăng từ 9 lên 20 nơi. Trong những năm Càn Long, còn thiết lập thêm 8 nơi đóng quân ở [[Tân Cương]]. Trong đó, binh lực tại Đông Bắc chiếm gần một nửa binh lực trú phòng, số nơi trú phòng cũng chiếm hơn phân nửa. Ngược lại, các địa phương khác chỉ có từ 1 đến 3 nơi đóng quân ở mỗi Tỉnh, trong đó phía bắc Trường Giang tương đối nhiều, còn lại [[Hồ Nam]], [[Giang Tây]], [[Quảng Tây]], [[Quý Châu]] đều không bố trí trú phòng.
 
Việc đóng giữ trong nội địa chủ yếu do hơn 60 vạn Lục kỳ binh đảm nhiệm, Bát kỳ Trú phòng chủ yếu đảm nhiệm vai trò giám sát. Quân Bát kỳ đóng giữ hơn 70 nơi trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, đều là những thành trấn quan trọng hoặc những nơi thủy bộ trọng yếu. Căn cứ theo nhu yếu mà thiết lập Trú phòng Tướng quân, Đô thống, Phó Đô thống hoặc chỉ thiết lập Thành thủ Úy, Phòng thủ Úy làm thống lĩnh. Trú phongphòng Bát kỳ là lực lượng quan trọng của nhà Thanh để khống chế toàn lãnh thổ. Ngoại trừ khu vực Đông Bắc, ở tất cả các địa phương trú phòng nhà Thanh cũng áp dụng chế độ phân chia "Kỳ nhân" và "Dân nhân", vừa để dễ quản lý, vừa để giảm khả năng bị người Hán ở địa phương đồng hóa.
 
[[Ung Chính Đế]] từng nói, nơi Trú phòng chỉ là nơi đi công tác, Kinh sư mới là quê cha đất tổ. Binh sĩ Trú phòng ban đầu đều là từ các Tá lĩnh Kinh kỳ phái ra, sau đó lại từ những Tá lĩnh khác nhau này, tại nơi Trú phòng hình thành nơinên những Tá lĩnh mới, tuy nhiên hộ tịch của họ vẫn nằm trong Tá lĩnh ban đầu.
{| class="wikitable"
|+
Hàng 454 ⟶ 451:
(Giang Ninh Tướng quân)
|4000 quân
Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán quânQuân
|Giang Ninh, tức Nam Kinh là cố đô của 6 triều đại thời [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam Bắc triều]], cũng là điểm giao thông quan trọng của hai đường thủy bộ.
|-
Hàng 462 ⟶ 459:
(Hàng Châu Tướng quân)
|4000 quân
Chủ yếu là Mãn - Mông, một ít Hán quânQuân
|Hàng Châu là trọng trấn phía Nam, hơn nữa thế lực của [[Nam Minh]] vẫn còn sót lại ở đây, vì vậy bố phòng để đảm bảo điều vận lương thực ở phía Nam.
|-
Hàng 470 ⟶ 467:
(Phúc Châu Tướng quân)
|1000 quân
Đều là Hán quânQuân Bát kỳ, về sau có tăng thêm
|Bộ hạ cũ của Cảnh thị - một thế lực trong [[Loạn Tam Phiên|Tam phiên]]. Bộ hạ cũ của Cảnh Tinh Tinh sau khi đầu hàng được đãi<ref group="Chú thích">Đãi chúc (隶属), nghĩa là chịu sự quản lý</ref> vào Hán quânQuân Thượng Tam kỳ.
|-
|[[Quảng Châu]]
Hàng 477 ⟶ 474:
|1 Tướng quân
(Quảng Châu Tướng quân)
|3000 quân đều thuộc Hán quânQuân Bát kỳ:
 
* 1125 quân thuộc Thượng Tam kỳ
* 1875 quân thuộc Hạ Ngũ kỳ
|Bộ hạ của của Thượng thị - một thế lực trong [[Loạn Tam Phiên|Tam phiên]]. Bộ hạ cũ của Thượng Khả Hỉ sau khi đầu hàng được đãi vào Hán quânQuân Thượng Tam kỳ.
|-
|[[Kinh Châu]]
Hàng 488 ⟶ 485:
(Kinh Châu Tướng quân)
|4000 quân
Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán quânQuân
|Sau khi bình định [[Loạn Tam Phiên]], Khang Hi Đế nhận ra tầm quan trọng về mặt địa lý của Kinh Châu
|-
Hàng 497 ⟶ 494:
|1600 quân
Về sau có tăng thêm quân
|Ban đầu là một chi nhánh của Trú phong Kinh Châu, về sau vì loạn Đại - Tiểu Kim Xuyên mà mở rộng
|-
|[[Khai Phong]]
Hàng 561 ⟶ 558:
(Tây An Tướng quân)
|4000 quân Mãn - Mông Bát kỳ
3000 quân Hán quânQuân Bát kỳ
|Tây An là nơi đóng quân và tích trữ lương thảo để chuẩn bị tấn công các địa phương như [[Hồ Quảng]], [[Tứ Xuyên]], cũng là để chấn nhiếp các thế lực phản Thanh ở [[Sơn Tây]], [[Thiểm Tây]].
|-
Hàng 618 ⟶ 615:
 
==== Quân hàm ====
Năm Thuận Trị thứ 11 ([[1660]]), Thuận Trị Đế ra chỉ dụ, định ra Hán văn của '''Cố Sơn Ngạch Chân''' là ''Đô thống'', '''Mai lặcLặc Chương Kinh''' là ''Phó Đô thống'', '''Giáp Lạt Chương Kinh''' là ''Tham lĩnh'', '''Ngưu Lộc Chương Kinh''' là ''Tá lĩnh''. Vì vậy, các tầng cơ cấu của Bát kỳ lần lượt là Ngưu Lộc (Tá lĩnh) - Giáp Lạt (Tham lĩnh) - Cố Sơn (Đô thống).
 
Trong Bát kỳ ở Kinh sư, ở mỗi kỳ thiết lập 1 Đô thống - hàm Tòng Nhất phẩm, 2 Phó Đô thống - hàm Chính Nhị phẩm, ở dưới lần lượt thiết lập Tham lĩnh, Tá lĩnh, Hiểu kỳ giáo và Ấn vụ Tham lĩnh, Ấn vụ Chương Kinh, Bút thiếp thức các loại. Ngoài ra ở mỗi Kỳ còn nhiều quan viên Hành tẩu, Tán trật quan, số lượng vô hạn định.
Hàng 665 ⟶ 662:
|16
|-
|Hán quânQuân
|5
|40
Hàng 681 ⟶ 678:
|16
|-
|Hán quânQuân
|5
|40
Hàng 697 ⟶ 694:
|204
|-
|Hán quânQuân
|
|266
Hàng 713 ⟶ 710:
|204
|-
|Hán quânQuân
|
|266
Hàng 730 ⟶ 727:
|8
|-
|Hán quânQuân
|2
|16
Hàng 749 ⟶ 746:
|24
|-
|Hán quânQuân
|6
|36
Hàng 765 ⟶ 762:
|24
|-
|Hán quânQuân
|6
|36
Hàng 850 ⟶ 847:
|Kiêu kỵ doanh
|Một trong các lực lượng [[Cấm vệ quân]] thời Thanh, bắt đầu từ "A Lễ Cáp Siêu Cáp doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời [[Hoàng Thái Cực]].
Thời Thuận Trị định ra chế độ rõ ràng, thiết lập Kiêu Kỵkỵ doanh trong quân Bát kỳ, là lực lượng lệ thuộc trực tiếp vào Đô thống.
 
Trong Kiêu Kỵkỵ doanh quản lý Mã giáp, Lĩnh thôi, Tượng dịch, các nhân viên đều điều từ dưới các [[Tá lĩnh]] của Mãn Châu Bát kỳ.
|-
|[[Hộ quân (nhà Thanh)|Hộ quân doanh]]
Hàng 863 ⟶ 860:
Thời Ung Chính đổi thành "Quân ti Cấm vệ". Các nhân viên đều điều từ Mãn - Mông Bát kỳ. Mỗi kỳ thiếp lập 1 [[Hộ quân Thống lĩnh]] (''tui janggin'').
 
Năm Ung Chính thứ 3 ([[1725]]), thiết lập thêm "Viên Minh Viên Bát kỳ Hộ quân doanh", đóng quân ở xung quanh [[Viên Minh Viên|Viên Minh viên]], cũng là Ti Cấm vệ.
|-
|Tiền phong doanh
Hàng 880 ⟶ 877:
|-
|Hỏa khí doanh
|Một trong các lực lượng quân đội Kinh sư thời Thanh. Vì nhu cầu dẹp Loạn Tam phiên, Khang Hi Đế cực kỳ coi trọng kỷkỹ thuật hỏa pháo.
Năm [[1691]], quy định toàn bộ doanh quân đều phải luyện tập Hỏa pháo, lại khuếch trưởng theo thủ vệ của Hoàng đế.
 
Hàng 999 ⟶ 996:
* Sau khi chiếm lĩnh được Trung Nguyên, [[Nhà Thanh]] bố trí Bát kỳ Mãn Châu làm quân đồn trú tại các địa phương để ngăn chặn sự nổi dậy của dân chúng. Điều này đẩy nhanh quá trình [[Hán hóa]], và chỉ sau mấy chục năm hòa bình và hiếm khi thao luyện trên chiến trường, Bát kỳ Mãn Châu dần mất đi khả năng chiến đấu.
* Quân Bát kỳ thực hiện chế độ cha truyền con nối, cả nhà đời đời nối nhau tham gia quân ngũ, cha là lính Bát kỳ thì các con trai cũng sẽ là lính Bát kỳ, không tuyển thêm người ngoài. Vì thế, một đứa trẻ sơ sinh cũng đã là một người lính Bát kỳ và được trả lương, dẫu rằng sau này lớn lên nó chẳng hề được huấn luyện quân sự và chẳng biết gì về việc tác chiến. Qua mấy thế hệ không gặp chiến tranh, tinh thần thượng võ trong các gia tộc quân nhân dần giảm sút, con cháu phải lo mưu sinh nên trình độ huấn luyện, tinh thần chiến đấu cũng ngày càng kém đi so với cha ông. Ngoài ra, do sinh đẻ thời đó khó kiểm soát nên nhân khẩu của Bát kỳ ngày càng tăng, Giữa thời [[Gia Khánh]], tráng đinh người Mãn trong Bát kỳ có ước khoảng 50 vạn người, nếu như tính cả già trẻ và nữ giới thì có 150 vạn người, tăng thêm rất nhiều so với thời kỳ đầu triều Thanh. Bộ máy ngày càng cồng kềnh, chi phí lương bổng ngày càng nhiều lên khiến chi phí cho huấn luyện, mua sắm vũ khí ngày càng ít đi.
* Mặt khác, lương bổng quá thấp khiến việc tuyển mộ khó khăn và tạo ra hiện tượng lính ma, lính kiểng, việc chạy chức, chạy quyền các chức vụ chỉ huy trong Lục Doanhdoanh đã xảy ra. Vì vậy phẩm chất tướng lãnh xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc lao động kiếm tiền. Quan binh tham nhũng, ăn chặn lương bổng khiến binh sĩ mang tâm lý bất mãn đối với triều đình, không muốn liều mạng đổ máu cho triều đình và quan lại, khi có chiến sự chỉ lo bảo toàn tính mạng, hiếm khi xung phong hãm trận.
* Quân Bát kỳ vẫn duy trì trang bị, lối huấn luyện giống như hồi giữa thế kỷ 17. Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, súng cầm tay và đại bác dần trở nên phổ biến, nhưng quân Bát kỳ vẫn tiếp tục duy trì chiến thuật kỵ binh và bắn cung như trước kia. Đến đầu thế kỷ 19 thì trang bị, chiến thuật của quân Bát kỳ đã trở nên lạc hậu, thậm chí còn kém hơn so với quân đội một số nước láng giềng chứ chưa nói tới quân đội các nước tư bản tiên tiến ở châu Âu. Danh tướng [[Phúc Khang An]] thời Càn Long – Gia Khánh từng dâng sớ cảnh báo: ''"Trận thế của quân Lục doanh xưa nay, chỉ là các thức lưỡng nghi tứ tượng, vuông tròn. Đây đều là các trận thế được truyền lại từ tiền triều, bắt chước như cũ. Bình thường thao duyệt tuy đáng xem nhưng khi lâm trận chiến đấu lại không thực dụng"''.
* Đến đầu thế kỷ 19 thì Trung Quốc còn gặp họa [[thuốc phiện]] do phương Tây đưa vào. Nhiều tướng sỹ nghiện thuốc phiện, thể chất và trí lực trở nên yếu ớt, bệnh hoạn, không còn sức chiến đấu khi ra trận. [[Lâm Tắc Từ]] từng dâng tấu cho vua [[Đạo Quang]] nói về tác hại của thuốc phiện: ''“Thuốc phiện nếu không cấm tuyệt, thì nước mỗi ngày một nghèo, dân mỗi ngày một yếu; chỉ hơn chục năm sau, nước nhà không còn quân mạnh để ngự địch, không có bạc nén để lo quân lương”''.
 
Bát kỳ Mãn Châu đã nhanh chóng thoái hóa, tốc độ thoái hóa còn nhanh hơn quân đội Mông Cổ mấy lần. Ngay từ năm 1657, vua [[Thuận Trị]] đã than phiền là quân Bát kỳ bị tụt giảm lớn về chất lượng, không sánh được với thời kỳ trước. Đến nửa cuối thế kỷ 17, đạo quân này về cơ bản đã biến thành kiêu binh. Chiến dịch đánh Đài Loan, chống [[loạn Tam phiên]] và bình Khiết Nhĩ đanĐan, Mông Cổ về cơ bản đều do quân Lục Doanhdoanh người Hán gánh vác.<ref name="thuvien-ebook.net" /> Và chỉ sau một thời gian thanh bình, Lục doanh cũng thoái hóa và mất dần khả năng quân sự và kỷ luật. Chất lượng quân đội nhà Mãn Thanh vào đầu thế kỷ 18 đã xuống dốc nghiêm trọng so với thời lập quốc.
 
Đến thời [[Càn Long]], quân Bát kỳ đã trở nên rất suy thoái, hữu danh vô thực. Năm 1784, Càn Long đến Hàng Châu xem thao diễn quân sự, quân Bát kỳ ở đó bắn tên hầu hết bị trượt, có người cưỡi ngựa không vững bị té xuống đất. Trong [[Khởi nghĩa Bạch Liên giáo]] (1795), quân đội nhà Thanh mà nòng cốt là Bát kỳ Mãn Châu đã tỏ rõ sự xuống cấp nghiêm trọng về tác chiến. Họ phải điều động mấy chục vạn quân từ 16 tỉnh để trấn áp cuộc nổi dậy, hơn 10 võ quan cao cấp như Đề đốc, Tổng binh và hơn 400 võ quan trung cấp từ Phó tướng trở xuống tử trận<ref>Trịnh Thiên Đĩnh, Thanh sử giản thuật</ref> Chưa nói việc tác chiến mà ngay cả việc hành quân đường núi cũng đã là điều khó nhọc với binh sỹ Bát kỳ, trong 2 ngày họ chỉ đi được 70 dặm đường (khoảng 35&nbsp;km). Trong chiến dịch Xuyên Sở, sách sử ghi lại ''xét chư tướng tụ tập ăn uống, vốn thâm hụt một khoản lớn, như cua cá hải sản 30, 40 loại, còn chi phí khao thưởng cho cấp dưới thì không tính nổi. Phàm những nơi màu mỡ, các chợ búa đầy ngọc ngà gấm lụa thì việc biếu xén, hối lộ, đánh bạc,… phung phí như bùn đất''.<ref>Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, quyển 11, Vũ sự dư ký</ref> Bởi sự hủ bại không thể cứu vãn của các lực lượng chính quy Bát kỳ, [[Lục doanh]], nhà Thanh buộc phải dựa vào binh sĩ địa phương để trấn áp cuộc khởi nghĩa.
Hàng 1.013 ⟶ 1.010:
Ngoài quân Bát kỳ là người Mãn Châu, còn có quân Bát kỳ là người Mông Cổ. Họ vẫn sống trên thảo nguyên, không di cư vào Trung Quốc nên không bị Hán hóa và vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu lâu dài hơn Bát kỳ Mãn Châu. Nhưng tới cuối thời [[Càn Long]] (cuối thế kỷ 18) thì lực lượng này cơ bản cũng đã suy thoái, đội quân này bị đánh bại trong một chiến dịch đánh khởi nghĩa [[Niệp quân]] (Nian Army) vào thập niên 1860.
 
Trong Khởi nghĩa [[Thái Bình Thiên quốc]] (1851), quân Bát kỳ và Lục Doanhdoanh đã quá hủ bại nên liên tục bại trận. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, quân Thái Bình Thiên quốc đã chiếm được hơn 16 tỉnh, 600 thị trấn... làm triều đình nhà Thanh lung lay đến tận gốc rễ. Tháng 3 năm 1853, quân nổi dậy chiếm được thành phố quan trọng phía nam của nhà Thanh là [[Nam Kinh]]. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái Bình Thiên quốcQuốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân (天津), áp sát thủ đô Bắc Kinh của nhà Thanh.
 
Nhà Thanh phải chấp nhận nhiều đội quân "Dũng binh" kiểu mới ra đời để cứu vãn như [[Tương quân]] của [[Tăng Quốc Phiên]], Sở quân của [[Tả Tông Đường]], Hoài quân của [[Lý Hồng Chương]] và đạo quân đánh thuê nước ngoài [[Thường Thắng Quân|Thường Thắng quân]].<ref name="thuvien-ebook.net" /> Súng trường được du nhập vào Trung Hoa do Thường Thắng Quânquân của F. T. Ward và C. G. Gordon chỉ huy hồi thập niên 1860 khi họ giúp triều đình chống lại quân Thái Bình Thiên quốcQuốc nhưng chưa được trang bị (đại trà) cho quân đội Trung Hoa. Hoài Quân (Huaijun) của Lý Hồng Chương có lẽ là lực lượng đầu tiên dùng các vũ khí mới này vào đầu thập niên 1860. Tuy nhiên, mãi đến thập niên 1880 súng trường mới là vũ khí tiêu chuẩn cho quân đội Trung Hoa. Bát kỳ và Lục Doanhdoanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh nên dần biến mất, từ thập niên 1870 các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của nhà Thanh.
 
== Sách ==