Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mông Cổ xâm lược Nhật Bản”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bổ sung các thông tin cho cuộc xâm lược thứ nhất
Bổ sung các thông tin cho cuộc xâm lược
Dòng 35:
'''{{nihongo|Mông Cổ xâm lược Nhật Bản|元寇|Genkō|hanviet=Nguyên khấu|kyu=|hg=|kk=|}}''', diễn ra năm 1274 và năm 1281, là những nỗ lực quân sự quy mô lớn do [[Hốt Tất Liệt]] của [[Đế quốc Mông Cổ]] tiến hành nhằm chinh phục [[quần đảo Nhật Bản]] sau khi [[Cao Ly]] quy phục làm chư hầu. Kết quả cuối cùng là quân Mông Cổ phải gánh chịu những thất bại nặng nề sau hai lần xâm lược và buộc phải từ bỏ ý định chinh phục Nhật Bản. Những nỗ lực xâm lược có tầm quan trọng lịch sử vĩ mô bởi vì nó đặt ra một giới hạn cho việc bành trướng của người Mông Cổ và được xếp hạng như các sự kiện xác định quốc gia trong lịch sử [[Nhật Bản]].
 
Cuộc xâm lược của Mông Cổ vào Nhật Bản là một trong những trường hợp sớm nhất của chiến tranh thuốc súng bên ngoài [[Trung Quốc]] và được coi là tiền thân của chiến tranh thời kỳ đầu hiện đại. Một trong những phát minh công nghệ đáng chú ý nhất trong cuộc chiến này là sử dụng [[bom]] nổ ném bằng tay.<ref name="Turnbull2013">{{chú thích sách|author=Stephen Turnbull|title=The Mongol Invasions of Japan 1274 and 1281|url=https://books.google.com/books?id=Qo4amAg_ygIC&pg=PT41|accessdate=ngày 16 tháng 4 năm 2013|date=ngày 19 tháng 2 năm 2013|publisher=Osprey Publishing|isbn=978-1-4728-0045-9|pages=41–42}}</ref>
 
Cuộc xâm lăng được đề cập đến trong nhiều tác phẩm hư cấu, và là sự kiện sớm nhất mà từ ''kamikaze'' ("thần phong") được sử dụng rộng rãi, có nguồn gốc từ hai cơn bão mà đội quân Mông Cổ đã phải hứng chịu.
 
== HoànBối cảnh ==
Sau một loạt các cuộc [[Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly|cuộc xâm lược Cao Ly]] ([[Triều Tiên]]) giữatừ năm 1231 đến năm 1281, [[Goryeo|Cao Ly]] đã ký một hiệp ước khuất phục Mông Cổ và trở thành một quốc gia [[chư hầu]]. Hốt Tất Liệt lên ngôi [[Khả hãn|Khả Hãn]] của [[Đế quốc Mông Cổ]] vào năm 1260 (mặc dù đâyđiều này không phải làđược người Mông Cổ đượcở phương tây công nhận rộng rãi ở phương tây) và đã thành lập thủ đô của mình tại [[Khanbaliq]] (bên trong khu vực nay là [[Bắc Kinh]]) vào năm 1264.
[[Tập tin:Mōko Shūrai Ekotoba.jpg|nhỏ|300px|Chiến binh [[samurai]] [[Takezaki Suenaga]] đối diện với mũi tên, bom nổ của quân Mông Cổ và Cao Ly]]
 
Sau một loạt các cuộc [[Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly|xâm lược Cao Ly]] ([[Triều Tiên]]) giữa năm 1231 và năm 1281, [[Goryeo|Cao Ly]] đã ký một hiệp khuất phục Mông Cổ và trở thành một quốc gia chư hầu. Hốt Tất Liệt lên ngôi Khả Hãn của Đế quốc Mông Cổ vào năm 1260 (mặc dù đây không phải là người Mông Cổ được công nhận rộng rãi ở phương tây) và đã thành lập thủ đô của mình tại [[Khanbaliq]] (bên trong khu vực nay là [[Bắc Kinh]]) vào năm 1264.
[[Nhật Bản]] thời đó được cai trị bởi các thịNhiếp trưởngchính ([[Shikken]]) của thịgia tộc Hōjō, người đã kết hôn và giành quyền kiểm soát đất nước từ [[Minamoto no Yoriie]], [[shōgun]] của tướng[[Mạc phủ Kamakura]], sau khi ông mấtqua đời vào năm 1203. Quyền lực của gia tộc Hōjō dần trở nên nổilớn bậtmạnh đến mức họ không còn tham khảo ý kiến ​​của hội đồng shogunate ({{nihongo||評定|Hyōjō|hanviet=Bình định|kyu=|hg=|kk=|}}), triều đình Kyoto,[[Kyōto]] hoặchay các chư hầu [[gokenin]] của họ, đồng đưa rathời các quyết định của họ sẽ được đưa ra tại các cuộc họp riêng trong nhà riêng của họ ({{nihongo||寄合|yoriai|hanviet=Kí hiệp|kyu=|hg=|kk=|}}).
 
Người Mông Cổ cũng cố gắng chinh phục các dân tộc bản địa ở [[Sakhalin]] - [[ngườiNgười Ainu|Ainu]], [[ngườiNgười Orok|Orok]], và [[ngườiNgười Nivkh|Nivkh]] - từ 1260năm 1264 đến năm 1308.<ref>''The conquest of Ainu lands: ecology and culture in Japanese expansion, 1590–1800'' By Brett L. Walker, p.133</ref> Tuy nhiên, nhiều người nghi ngờ rằng liệu các hoạt động của Mông Cổ ở Sakhalin có phải là một phần trong nỗ lực xâm lược Nhật Bản hay không.
[[Nhật Bản]] thời đó được cai trị bởi các thị trưởng Shikken của thị tộc Hōjō, người đã kết hôn và giành quyền kiểm soát từ Minamoto no Yoriie, shōgun của tướng Kamakura, sau khi ông mất vào năm 1203. Quyền lực của Hōjō có trở nên nổi bật đến mức họ không còn tham khảo ý kiến ​​của hội đồng shogunate ({{nihongo||評定|Hyōjō|hanviet=Bình định|kyu=|hg=|kk=|}}), triều đình Kyoto, hoặc các chư hầu [[gokenin]] của họ, và đưa ra các quyết định của họ tại các cuộc họp riêng trong nhà riêng của họ ({{nihongo||寄合|yoriai|hanviet=Kí hiệp|kyu=|hg=|kk=|}}).
 
== Tiếp xúc ==
Người Mông Cổ cũng cố gắng chinh phục dân tộc [[Sakhalin]]—[[người Ainu|Ainu]], [[người Orok|Orok]], và [[người Nivkh]] - từ 1260 đến 1308.<ref>''The conquest of Ainu lands: ecology and culture in Japanese expansion, 1590–1800'' By Brett L. Walker, p.133</ref>
Từ lâu, giữa hai nước Nhật Bản và Trung Quốc đã gần như không còn giao thiệp gì với nhau kể từ [[thời kỳ Heian]] giữa thế kỷ thứ 9 sau khi [[Hậu Đường|nhà Hậu Đường]] sụp đổ. Mặc dù Nhật Bản vẫn tiến hành giao thương với [[nhà Tống]] ở một mức độ nào đó, nhưng về cơ bản thì hai bên không còn quá quan tâm gì đến nhau. Đến khi Đế quốc Mông Cổ tiến hành xâm lược [[Nam Tống]] và thành lập [[nhà Nguyên]] thì vào năm 1266, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đã phái sứ giả đến Nhật Bản, yêu cầu đảo quốc này trở thành một nước chư hầu và phải triều cống cho nhà Nguyên, đe dọa sẽ tiến hành xâm lược nếu họ từ chối. Thế nhưng các sứ giả đã trở về tay không. Đoàn sứ giả thứ hai được cử đi vào năm 1268 rồi cũng trở về tay không như lần thứ nhất. Cả hai nhóm sứ giả đã gặp Chinzei Bugyō, người sau đó truyền đạt thông điệp đến cho Nhiếp chính lúc bấy giờ là [[Hōjō Tokimune]] và [[Thiên hoàng Kameyama]] ở Kyōto. Sau khi thảo luận về các bức thư tại nhà riêng của mình, đã có nhiều cuộc tranh luận xảy ra, nhưng Nhiếp chính Hōjō Tokimune đã quyết định gửi các sứ giả trở về mà không có câu trả lời. Hốt Tất Liệt tiếp tục gửi yêu cầu (một số lần thông qua sứ giả Cao Ly và số còn lại thông qua sứ giả Mông Cổ) vào các ngày 7 tháng 3 năm 1269, ngày 17 tháng 9 năm 1269, tháng 9 năm 1271 và tháng 5 năm 1272. Tuy nhiên, mỗi lần đến Nhật Bản những sứ giả này đều không được phép đặt chân xuống [[Kyushu|Kyūshū]]. Nhật Bản vẫn quyết làm ngơ trước yêu sách của nhà Nguyên, triều đình Kyoto và Mạc phủ từ chối yêu cầu của Hốt Tất Liệt cũng như chuẩn bị phòng thủ đất nước.
 
== Chuẩn bị xâm lược lần thứ nhất ==
Hốt Tất Liệt đã rất muốn đưa quân sang Nhật Bản để bắt đảo quốc này phải quỳ xuống trước vó ngựa Mông Cổ, nhưng vì cuộc xâm lược Nam Tống đang trong giai đoạn ác liệt, cho nên nhà Nguyên chưa thể tiến hành một cuộc xâm lược quy mô lớn với Nhật Bản. Đến năm 1273, sau khi thành Tương Dương bị hạ, nhận thấy lúc này đã thích hợp để tiến hành chiến tranh với Nhật Bản, Hốt Tất Liệt cử một hạm đội lớn gồm khoảng 600-800 tàu chiến cùng 23 ngàn quân ra khơi tại cảng [[Tuyền Châu]]. Hạm đội xâm lược dự kiến ​​khởi hành vào tháng 7 năm 1274 nhưng bị trì hoãn trong ba tháng. Hốt Tất Liệt lên kế hoạch cho hạm đội tấn công [[Tsushima (đảo)|đảo Tsushima]] và [[Iki, Nagasaki|đảo Iki]] trước khi đổ bộ lên [[Hakata, Fukuoka|vịnhVịnh Hakata]]. Kế hoạch phòng thủ của người Nhật chỉ đơn giản là dùng lực lượng [[gokenin]] chiến đấu với quân Nguyên vào bất cứ thời điểm nào. Trên thực tế, không có hồ sơ đáng tin cậy nào về quy mô của lực lượng Nhật Bản lúc bấy giờ nhưng các ước tính cho thấy tổng quân số của họ vào khoảng 4.000 đến -6.000 quân. Lực lượng nhà Nguyên tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản với một đội quân gồm 15.000 binh sĩ [[người Mông Cổ]], [[người Hán]] và [[người Nữ Chân]] dưới sự chỉ huy của tướng Hốt Đôn cùng khoảng 1.500-8.000 binh sĩ [[Người Triều Tiên|người Cao Ly]] dưới sự chỉ huy của tướng Kim Bang-gyeong và một hạm đội gồm khoảng 300 con tàu cỡ lớn cùng 400-500 con tàu cỡ nhỏ.{{sfn|Twitchett|1994|p=437-442}}{{sfn|Turnbull|2010|p=32}}
 
== Cuộc xâm lược lần thứ nhất (1274) ==
[[Tập tin:Mōko Shūrai Ekotoba.jpg|nhỏ|300px|Chiến binh [[samurai]] [[Takezaki Suenaga]] đối diện với mũi tên, bom nổ của quân Mông Cổ và Cao Ly]]
=== Cuộc xâm lược đảo Tsushima ===
Lực lượng xâm lược nhà Nguyên khởi hành từ Hàn Quốc vào ngày 2 tháng 11 năm 1274. Hai ngày sau, họ bắt đầu đổ bộ lên Tsushima. Cuộc đổ bộ chính được thực hiện tại bãi biển Komoda gần Sasuura, nơi nằm trên mũi phía tây bắc của Đảo Nam Tsushima. Các cuộc đổ bộ bổ sung diễn ra ở eo biển nằm giữa hai đảo Tsushima, cũng như tại hai điểm khác trên Đảo Bắc Tsushima.{{sfn|Turnbull|2010|p=33}} Các mô tả về sự kiện này được kể lại dựa trên các nguồn tư liệu đương thời của Nhật Bản, đặc biệt là Sō Shi Kafu của gia tộc Sō ở Tsushima.
 
Tại Sasuura, sau khi phát hiện hạm đội xâm lược ngoài khơi, phó thống đốc kiêm lãnh chúa ([[jitōJitō]]) của Tsushima - Sō Sukekuni (1207–1274), do đã được Mạc phủ cảnh báo từ trước, đã dẫn đội kỵ binh của mình đối đầu với đại quân Nguyên. Tương truyền vào ngày hôm đó, tại ngôi đền thờ chiến thần Hachiman đã xuất hiện một đàn bồ câu trắng tượng trưng cho vị thần. Sau khi đàn chim bay đi thì ngôi đền đột nhiên bốc cháy, đó có thể là một điềm báo của sự xui xẻo, nhưng Sukekuni đã giải thích đó là một sự cảnh báo.{{sfn|Turnbull|2010|p=33}}
 
Với đội kỵ binh gồm 80 [[samurai]] trung thành cùng tùy tùng của họ, Sukekuni đã đối đầu với một lực lượng xâm lược mà Sō Shi Kafu mô tả là 8.000 chiến binh trên 900 con tàu.{{sfn|Turnbull|2010|p=34}} Quân Mông Cổ đổ bộ lúc 02:00 sáng ngày 5 tháng 11, phớt lờ các nỗ lực đàm phán của Nhật Bản và khai chiến bằng lực lượng cung thủ của họ. Cuộc chiến chính thức bắt đầu lúc 04:00.{{sfn|Turnbull|2010|p=34}} Các cung thủ Nhật Bản đã tiêu diệt nhiều binh sĩ Mông Cổ, và một samurai tên Sukesada được cho là đã hạ gục 25 binh sĩ đối phương trong các trận giao tranh riêng lẻ.{{sfn|Delgado|2010|p=92}} Lực lượng phòng thủ của quân Nhật đã cầm chân quân Mông Cổ trên bãi biển cho đến khi màn đêm buông xuống, những kẻ xâm lược đánh bại mũi tấn công cuối cùng của kỵ binh Nhật Bản, áp đảo và giết chết tất cả quân phòng thủ.{{sfn|Turnbull|2010|p=34}}{{sfn|Delgado|2010|p=92}}
 
Sau chiến thắng tại Komoda, quân Nguyên đã đốt phá hầu hết các tòa nhà xung quanh Sasuura và tàn sát hầu hết cư dân. Họ mất tới vài ngày để đảm bảo quyền kiểm soát hoàn toàn đảo Tsushima.{{sfn|Turnbull|2010|p=34}}
 
=== Cuộc xâm lược đảo Iki ===
Hạm đội quân Nguyên rời Tsushima vào ngày 13 tháng 11 và sau đó tấn công đảo Iki. Giống như Sukekuni, thống đốc của Iki là Taira Kagetaka đã dẫn quân của mình đối đầu với đại quân Nguyên trong khi đội kỵ binh của ông chỉ có khoảng 100 samurai và hơn 1000 bộ binh trước khi trở về lâu đài của mình lúc màn đêm buông xuống. Sáng hôm sau, quân Nguyên đã bao vây lâu đài. Kagetaka đã lén đưa con gái của mình thoát ra ngoài cùng với Sozaburo, một samurai đáng tin cậy, bằng một con đường bí mật dẫn đến bờ biển, nơi họ lên một con tàu và chạy trốn vào đất liền. Một hạm đội Mông Cổ đi qua đã bắn tên vào họ và giết chết cô con gái nhưng Sozaburo đã đến được vịnhVịnh Hakata và báo cáo về thất bại của Iki.{{sfn|Delgado|2010|p=93}}
 
Kagetaka thực hiện một cuộc xuất kích cuối cùng với 36 binh sĩ và thất bại, 30 người trong số họ đã chết trong trận chiến. Cuối cùng Kagetaka đã phải tự sát cùng với gia đình, gần như toàn bộ quân Nhật đều bị tàn sát.{{sfn|Turnbull|2010|p=37}} Theo người Nhật, quân Mông Cổ sau đó đã giết chết những người phụ nữ rồi dùng dao đâm xuyên qua lòng bàn tay của họ, lột trần họ và trói xác họ vào thành tàu của chúng.{{sfn|Delgado|2010|p=93-94}}
 
=== Cuộc chiến ở vịnhVịnh Hakata ===
[[Tập tin:Kikuchi Yoosai - Mongol Invasion (mōko shūrai) - Tokyo National Museum.jpg|nhỏ|Một bức tranh vẽ bằng mực nước trên giấy mô tả cảnh hạm đội Mông Cổ bị tiêu diệt trong một cơn bão, được vẽ bởi [[Kikuchi Yōsai]] năm 1847 và hiện đang được trưng bày tại [[Bảo tàng Quốc gia Tokyo]]]]
Vào ngày 19 tháng 11, quân Nguyên vượt biển và đổ bộ vào vịnhVịnh Hakata, cách [[Dazaifu, Fukuoka|Dazaifu]], thủ đô hành chính cổ của Kyūshū một khoảng cách ngắn. Ngày hôm sau đã diễn ra Trận chiến Bun'ei (文永の役) hay còn được gọi là "Trận chiến Vịnh Hakata lần thứ nhất"- trận đánh quy mô lớn đầu tiên giữa hai bên.
 
Phía Nhật Bản có khoảng 120 samurai và khoảng 3000 bộ binh. Phía quân Nguyên, mặc dù tổng lực của họ nhiều hơn, nhưng số quân tham chiến tại Hakata thì không quá áp đảo so với Nhật Bản, lực lượng của họ cũng chỉ vào khoảng 3000 - 4000 quân. Tuy nhiên, quân Nguyên có lợi thế hơn nhiều bởi do binh sĩ đều đã trải qua rất nhiều trận chiến khác nhau. Trong khi đó, quân Nhật thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý một lực lượng lớn như vậy (tất cả vùng Bắc Kyūshū đã được huy động). Đã gần 50 năm kể từ sự kiện chiến đấu lớn cuối cùng ở Nhật Bản, và không một vị tướng Nhật Bản nào có kinh nghiệm đầy đủ trong việc thống lĩnh một đội quân lớn. Quân Nguyên còn áp đảo quân Nhật bởi họ có vũ khí mạnh mẽ hơn (thứ nhất là kỵ binh quá mạnh, thứ hai là nghệ thuật bắn tên thiện nghệ của người Mông Cổ). Người Mông Cổ sở hữu các loại vũ khí tầm xa vượt trội (loại cung tên ngắn trứ danh của người Mông Cổ, với các mũi tên tẩm độc, mũi tên lửa, mũi tên thuốc nổ), thỉnh thoảng họ cũng ném bom giấy và bom vỏ sắt, khiến cho những con ngựa Nhật Bản sợ hãi và trở nên mất kiểm soát trong trận chiến. Ngoài ra, phong cách chiến tranh vốn là thông lệ trong thời phong kiến Nhật Bản đó là một-chọi-một (quy tắc [[võ sĩ đạo]]), ngay cả trong các trận đánh lớn. Tuy nhiên, người Mông Cổ không quen thuộc với phong cách chiến đấu như vậy, vì thế quân Nhật bị áp đảo.
 
{{quotationcquote|''Vị tướng chỉ huy giữ nguyên vị trí của mình trên cao và chỉ đạo các phân đội khác nhau khi cần thiết bằng các tín hiệu từ trống tay. Nhưng bất cứ khi nào binh lính (Mông Cổ) phất cờ hiệu, họ lại ném bom vỏ sắt (tetsuho) bay về phía chúng tôi, khiến cho phía chúng tôi choáng váng và bối rối. Những người lính của chúng tôi đã hoảng sợ vì những tiếng nổ kinh thiên động địa; mắt họ bị mù, tai họ điếc, đến nỗi họ khó có thể phân biệt đông tây. Theo cách chiến đấu của chúng ta, trước tiên chúng ta phải gọi tên một ai đó trong hàng ngũ của kẻ thù, sau đó tấn công đơn lẻ. Nhưng họ (người Mông Cổ) không hề để ý đến những quy tắc như vậy; chúng cùng nhau lao về phía trước thành một khối, vật lộn với bất kỳ cá thể nào chúng có thể bắt và giết họ.{{sfn|Needham|1986|p=178}}|''|||Hachiman Gudoukun''}}
 
Trận chiến chỉ kéo dài trong một ngày và cuộc giao tranh mặc dù diễn ra ác liệt nhưng không hiệp đồng.{{sfn|Turnbull|2010|p=40}} Một samurai cấp thấp tên là [[Takezaki Suenaga]] nhận được tin từ Shoni Kagesuke, chỉ huy của mình, rằng anh phải đợi cho đến khi quân Mông Cổ tiến lên do địa hình khó khăn, nhưng Takezaki vẫn lao đến tấn công quân Mông Cổ. Trên đường đến bãi biển, anh gặp được [[Kikuchi Takefusa]], người đã chạm trán với một biệt đội quân Nguyên, đẩy lùi họ và giết hai người. Kikuchi nói rằng 'những tên cướp biển' đã bỏ trốn. Takezaki và năm người bạn đồng hành của anh ta tấn công biệt đội quân Nguyên nhỏ mà Kikuchi đã chạm trán trước đó, nhưng ngựa của họ bị mắc kẹt trong bùn và họ bị thương bởi một loạt mũi tên bắn ra. Takezaki và ba thuộc hạ còn sống sót đã tìm cách rút lui với sự hỗ trợ của Shiroishi[[Shiraishi Michiyasu]], người đã tấn công một biệt đội quân Nguyên và đánh đuổi họ.{{sfn|Delgado|2010|p=95}}{{sfn|Turnbull|2010|p=47-48}} Vào ban đêm, lực lượng quân Nguyên đã buộc quân Nhật phải rời khỏi bãi biển với 1/3 lực lượng phòng thủ thiệt mạng, đẩy họ lui vào đất liền vài km và đốt cháy vịnhVịnh Hakata. Dù vậy, quân Nhật vẫn cố gắng cầm cự để chờ quân cứu viện tới nơi, trong khi quân Nguyên cũng chờ lực lượng còn lại với hơn 2 vạn quân đang dong buồm trên biển có thể cập bến.{{sfn|Delgado|2010|p=95-96}}
 
Trong cuộc chiến, một trong ba vị tướng chỉ huy của nhà Nguyên là Liu Fuxiang đã bị bắn vào mặt bởi Shoni Kagesuke, một samurai đang rút lui, và bị thương nặng. Liu triệu tập các tướng Hốt Đôn và Hong Dagu trở lại tàu của mình. Hốt Đôn muốn tiếp tục tiến công qua đêm trước khi có thêm quân tiếp viện của Nhật đến nhưng Hong lo rằng quân của họ đã kiệt sức và cần nghỉ ngơi. Lo sợ bị phục kích trong đêm, Liu đồng ý với Hong và triệu tập lực lượng quân Nguyên trở lại bãi biển. Nếu như các cánh quân nhà Nguyên có thể hợp nhất, thì quân Nhật sẽ dễ dàng bị áp đảo và tàn sát, Kyūshū sẽ nhanh chóng bị thất thủ. Tuy nhiên vào đêm hôm đó, [[bão]] nổi lên ngoài khơi vịnhVịnh Hakata, hạm đội quân Nguyên ngoài khơi đã yêu cầu lực lượng trên bộ rút về tàu do lo sợ nếu bão to hơn, thời tiết gió mạnh và sóng lớn sẽ khiến cho hạm đội của họ bị mắc cạn, hai bên sẽ bị chia cắt hoàn toàn. Nhưng hóa ra đó lại là một hành động tự tay bóp chết quân mình, bão đêm đó to đến mức đánh đắm rất nhiều tàu chiến của quân Nguyên. Đến sáng hôm sau, hạm đội quân Nguyên tan tác hết cả, hơn 200 tàu chiến bị đánh đắm, số còn lại không hư hại nặng thì cũng hư hại nhẹ và toán quân Mông Cổ trên bộ đang bị say sóng hết cả một lượt với nhau. Lực lượng quân Nguyên bị thiệt hại quá nửa, cuộc xâm lược này có nguy cơ thất bại. Tuy nhiên, quân Nguyên vẫn cố gắng thực hiện hai cuộc tấn công nữa vào Akasaka và Torikai-Gata. Tại Akasaka thì tướng Kikuchi Takefusa đã đánh úp quân Nguyên và khiến họ phải rút lui dù tổn thất không nhiều lắm. Nhưng đến trận Torikai-Gata thì quân Nguyên bị hai cánh quân Nhật do Takezaki Suenaga và Shiraishi Michiyasu tấn công, quân Nguyên thảm bại khi hơn 3000 quân bị giết.
 
Lực lượng quân Nguyên bị thiệt hại quá nửa, cuộc xâm lược này có nguy cơ thất bại. Tuy nhiên, quân Nguyên vẫn cố gắng thực hiện hai cuộc tấn công nữa vào Akasaka và Torikai-Gata. Tại Akasaka thì tướng Kikuchi Takefusa đã đánh úp quân Nguyên và khiến họ phải rút lui dù tổn thất không nhiều lắm. Nhưng đến trận Torikai-Gata thì quân Nguyên bị hai cánh quân Nhật do Takezaki Suenaga và Shiraishi Michiyasu dẫn đầu tấn công, quân Nguyên thảm bại khi hơn 3000 quân bị giết. Đại quân Mông Cổ ra khơi từ Tuyền Châu với 23 ngàn quân, thế nhưng sau hai cuộc chiến tại Akasaka và Torikai-Gata thì lực lượng chỉ còn lại khoảng 1/3 so với ban đầu. Nghĩ kiểu gì cũng không thể đánh tiếp, vì thế nên quân Nguyên buộc phải rút lui. Cuộc xâm lược lần thứ nhất kết thúc chỉ sau 1 tháng với phần thắng thuộc về Nhật Bản.
 
== Chuẩn bị xâm lược lần thứ hai ==
[[FileTập tin:Genko Borui Nishijin Fukuoka 02.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|200px|Một bức tường phòng thủ bằng đá ([[Genkō Bōrui]]) tại Nishijin, gần Đại học Seinan. Hiện tại, chỉ còn lại phần đỉnh của một vài bức tường đá lộ ra trên mặt đất, còn phần lớn đã được khai hoang]]
[[Tập tin:The stake of a Japanese army.JPG|nhỏ|60px|Một chiếc cọc được đóng ở cửa sông để ngăn quân Mông Cổ. Nó được khai quật vào năm 1905, hiện đang trưng bày ở [[Bảo tàng Genko]]]]
Mặc dù thất bại trong cuộc xâm lược thứ nhất, nhưng Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ tham vọng nuốt chửng Nhật Bản. Phía [[Mạc phủ Kamakura]] cũng thừa biết nhà Nguyên không dễ gì bỏ cuộc, vì thế họ gấp rút chuẩn bị để đối phó với một cuộc xâm lược nữa có thể xảy ra. Nhằm một lần nữa thăm dò Nhật Bản, tháng 9 năm 1275, Hốt Tất Liệt cử một đoàn sứ thần gồm năm ngườisứ đếnthần Kyushunhà nămNguyên 1275đến Kyūshū, yêu cầu Thiên Hoàng phải thân hành đến Đại Đô để thần phục trước Hoàng đế nhà Nguyên và từ chối rời đi mà không được hồi âm. Đáp lại yêu sách này, Nhiếp chính Hōjō Tokimune đã ra lệnh áp giải đoàn sứ thần nhà Nguyên về [[Kamakura]] sau đó chém đầu hếttất cả. Đến năm 1279<ref>Reed, mộtEdward đoànJ. sứ(1881). thần{{Google nữabooks|sYsIAAAAIAAJ|''Japan: tiếpits tụcHistory, đượcTraditions, cửand đếnReligions'', vớip. mục đích tương tự và cũng bị chém đầu hết291.|page=291}}</ref> MạcMộ phủcủa Kamakuranăm đãsứ quyết tâm chống lạigiả nhà Nguyên, Nhiếpbị chínhhành Hōjōquyết Tokimunecòn cũngtồn đã lệnhtại cho cácđến lãnhngày chúanay sửatại sang,Jōryū-ji củng cố[[Fujisawa, cácKanagawa|Fujisawa]], thành[[Kanagawa]], trìgần venvới biểnđịa đểđiểm chuẩnhành bịquyết choTatsunokuchi một cuộcKamakura.<ref>{{cite xâmweb|url=http://www.kamakura-burabura.com/meisyoenosimajyourituji.htm|title=常立寺|website=www.kamakura-burabura.com|accessdate=30 lượcApril chắc chắn sẽ mạnh mẽ và lớn hơn rất nhiều2018|url-status=live|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170812201903/http://www.kamakura-burabura.com/meisyoenosimajyourituji.htm|archivedate=12 NhậtAugust Bản2017}}</ref> cũngĐến đãngày xây29 dựngtháng một7 phòngnăm tuyến1279, bằngnăm đásứ khổnggiả lồkhác dọccủa theonhà bờNguyên biểntiếp tạitục Vịnhđược Hakatacử -đến nơivới diễnmục rađích trậntương chiếntự ác liệtcũng nămbị 1274.chém Tuyếnđầu phònghết, thủlần này cao từ 1.5-4.5[[Hakata, mét (5-15 ft) và dài đến 25 dặmFukuoka|Hakata]].
 
Mạc phủ Kamakura đã quyết tâm chống lại nhà Nguyên, Nhiếp chính Hōjō Tokimune cũng đã lệnh cho các lãnh chúa sửa sang, củng cố các thành trì ven biển. Các dịch vụ tôn giáo tăng lên và [[đền Hakozaki]], nơi đã bị quân Nguyên phá hủy, cũng được xây dựng lại. Ngoài việc tổ chức một lực lượng samurai tốt hơn ở Kyūshū, họ còn ra lệnh xây dựng các pháo đài, một bức tường phòng thủ bằng đá lớn ([[Genkō Bōrui]]) và các công trình phòng thủ khác tại nhiều điểm đổ bộ tiềm năng dọc theo bờ biển Vịnh Hakata. Bức tường phòng thủ được xây dựng vào năm 1276 này cao từ 1.5-4.5 mét (5-15 ft) và dài đến 25 dặm. Ngoài ra, một số lượng lớn cọc được đóng vào khu vực cửa sông và các bãi đổ bộ dự kiến ​​để ngăn chặn quân đội Mông Cổ đổ bộ. Thậm chí còn có một kế hoạch cho một cuộc đột kích vào Cao Ly được thực hiện bởi Shōni Tsunesuke, một vị tướng ở Kyūshū, tuy nhiên điều này chưa bao giờ được thực hiện.
 
Vào mùa thu năm 1280, Hốt Tất Liệt tổ chức một hội nghị tại các cung điện của mình để thảo luận về kế hoạch xâm lược Nhật Bản lần thứ hai. Sự khác biệt chính giữa cuộc xâm lược đầu tiên và lần hai này là nhà Nguyên đã hoàn thành việc chinh phục nhà Tống vào năm 1279 nên có thể phát động một cuộc tấn công theo hai hướng. Lực lượng xâm lược lần này được tuyển chọn từ nhiều nguồn bao gồm những tên tội phạm với bản án tử hình được giảm nhẹ và thậm chí có cả những người đang để tang cha mẹ (một vấn đề nghiêm trọng ở Trung Quốc đương đại). Hơn 1.000 tàu đã được trưng dụng cho cuộc xâm lược này (600 tàu từ phía nam Trung Quốc và 900 tàu từ Cao Ly). Được biết, nhà Nguyên đã huy động đến 100.000 binh sĩ người Mông Cổ, người Hán cùng với 40.000 binh sĩ người Cao Ly. Những con số này có thể là một sự phóng đại nhưng việc bổ sung thêm các nguồn lực từ phía nam Trung Quốc cũng đồng nghĩa với việc lực lượng của cuộc xâm lược này vẫn lớn hơn nhiều lần so với cuộc xâm lược đầu tiên. Không có bất cứ thông tin nào được ghi chép lại một cách rõ ràng về quy mô của lực lượng Nhật Bản lúc bấy giờ, các ước tính được đưa ra cho rằng tổng quân số của họ vào khoảng 40.000 quân.{{sfn|Turnbull|2010|p=55-57}}
 
== Cuộc xâm lược lần thứ hai (1281) ==
[[Tập tin:Takezaki suenaga ekotoba3.jpg|nhỏ|350px|Tranh vẽ mô tả các [[samurai]] Nhật Bản đột kích tàu của quân Mông Cổ]]
[[Tập tin:Takezaki suenaga ekotoba bourui.jpg|nhỏ|upright=1.5|Tranh vẽ mô tả bức tường phòng thủ ở [[Hakata, Fukuoka|Vịnh Hakata]]]]
Mùa xuân năm 1281, Hốt Tất Liệt phát động cuộc xâm lược Nhật Bản lần thứ hai, lần này với hai đạo quân lớn và có số lượng nhiều hơn đạo quân lần thứ nhất rất nhiều. Đội quân của người Mông Cổ tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản lần này được chia làm hai: một lực lượng gồm 900 tàu chở 17.000 thủy thủ, 10.000 lính Triều Tiên, 15.000 lính Mông Cổ và 15.000 lính Trung Quốc đã khởi hành từ [[Masan]], [[Triều Tiên]] hướng tới Nhật Bản. Một lực lượng nữa còn đông đảo hơn gồm 3.500 tàu chở tới 142.000 binh sĩ và thủy thủ xuất phát từ phía nam [[Trung Quốc]].
 
Tháng 5 năm 1281, hạm đội ra khơi từ Cao Ly cập bến Vịnh Hakata, còn hạm đội ra khơi từ Trung Quốc vẫn chưa đến nơi. Hạm đội thứ nhất đã đến Vịnh Hakata vào ngày 23 tháng 6 năm 1281 và bắt đầu mở những cuộc tấn công dữ dội. Mặc dù có số lượng tương đối lớn với 25 ngàn người, quân Nguyên không thể xuyên phá được hàng phòng thủ bằng đá vững chắc của Nhật Bản tại Vịnh Hakata cho dù đã sử dụng đến cả máy bắn đá, thế trận diễn ra giằng co quyết liệt. Thêm vào đó là chiến thuật quấy phá của quân Nhật: khi màn đêm buông xuống, các samurai Nhật Bản sử dụng những chiếc thuyền nhỏ bất thình lình đột kích hạm đội Mông Cổ trong bóng tối, đốt cháy nhiều con tàu và giết hại nhiều binh lính Mông Cổ, sau đó họ lại chèo thuyền quay trở lại đất liền. Quân Nhật Bản lần này chiến đấu ngoan cường hơn rất nhiều khi họ cứ liều mạng xông lên để phá hủy những cỗ máy bắn đá của quân Nguyên. Dịch bệnh cũng là một vấn đề lớn với quân Nguyên, ít nhất 3000 người chết vì bệnh, số người chết vì các cuộc đột kích hay trong các trận chiến vô vọng để công phá hàng phòng thủ Hakata lên tới hàng ngàn. Quân Nguyên sa lầy ở Hakata và đành phải chờ hạm đội chính với 10 vạn đại quân đến nơi.
 
Về phần hạm đội chính của quân Nguyên thì họ không đến thẳng Vịnh Hakata mà đi lòng vòng hơn nhiều. Đầu tiên đội quân tiên phong tiếp tục đổ bộ xuống đảo Tsushima, nhưng lần này chịu sự chống cự ác liệt của quân Nhật nên buộc phải rút lui. Đến ngày 8 tháng 6, quân Nhật chia ra làm hai đạo và tấn công quân Nguyên tại eo biển có tên Umi no Nakamichi, đây lại là một thắng lợi nữa của quân Nhật khi họ đánh bại quân của hai tướng nhà Nguyên là Hong Dagu - tướng người Cao Ly và Trương Thành - tướng người Hán. Ngày hôm sau Trương Thành cố gắng tập hợp lại quân để đáp trả quân Nhật nhưng thất bại do gặp phải sự kháng cự quá lớn. Sau thất bại này, Trương Thành dẫn số quân còn lại rút về đảo Iki để họp với lực lượng ở đây.
 
Đến ngày 29 tháng 6, quân của ba gia tộc Matsura, Ryuzoji và Takagi hợp lại với hơn 1 vạn quân và mở cuộc tổng tấn công đạo quân Nguyên ở đảo Iki. Lần này thì chính quân Nguyên lại bị thua kém về số lượng khi đại quân của họ đang ở [[Hirado, Nagasaki|đảo Hirado]]. Trận chiến trên đảo Iki kéo dài vài ngày và kết cục là quân Nguyên bị đánh bại và tàn quân của họ rút về đảo Hirado, họp với đại quân ở đây.
 
Lúc này, ở Hirado đang tập trung đại quân Nguyên gồm khoảng 10 vạn quân và đang chuẩn bị dong buồm tới Vịnh Hakata để trợ giúp đạo quân Nguyên còn lại. Nhận ra thời cơ chỉ có một, Takezaki Suenaga - vị tướng từng chiến thắng quân Nguyên 7 năm trước ở Torikai-Gata quyết định bất ngờ tấn công hạm đội của quân Nguyên. Do bị bất ngờ và không có sự chuẩn bị, thêm nữa là phần lớn quân lính đã đóng trại trên bờ, hạm đội của quân Nguyên bị tổn hại khá nặng nề, hầu hết các chỉ huy cấp cao của quân Nguyên đều ở trên tàu, một số bị giết, một số chạy về Đại Nguyên, bỏ mặc đại quân 10 vạn người ở lại Hirado.
 
Không còn chỉ huy, 10 vạn quân Nguyên lâm vào thế bị động, không biết nên làm gì. Cuối cùng, đại quân quyết định dong buồm đến Hakata nơi đạo quân còn lại đang sa lầy. Cuộc chiến ở Vịnh Hakata lâm vào thế bế tắc trong suốt 50 ngày liên tục, cho đến ngày 12 tháng 8, hai đạo quân của nhà Nguyên cuối cùng cũng hợp lại được với nhau và tổng số là hơn 11 vạn quân. Với lượng quân khổng lồ như vậy, quân Nguyên hy vọng cuối cùng họ cũng có thể xuyên phá được lớp phòng ngự Hakata. Phải đối mặt với một lực lượng đông hơn gấp ba lần, thế nhưng các [[samurai]] vẫn chiến đấu rất dũng cảm dù tình thế đã dần trở nên tuyệt vọng. Tưởng như quân Nhật sẽ phải chịu thất bại, thì phép màu đã đến với họ: vào ngày 15 tháng 8 năm 1281, một cơn [[bão]] rất lớn đã đổ bộ vào bờ biển [[Kyūshū]], cơn bão này lớn hơn cơn bão 7 năm trước gấp bội phần và đã đánh đắm hầu như toàn bộ hạm đội 4400 tàu chiến của quân Nguyên. Rất nhiều binh lính Mông Cổ đã chết đuối, số còn lại chạy kịp lên bờ thì cũng bị các samurai tàn sát. Cuối cùng thì lúc đi 13 vạn quân, đến khi cơn bão tan đi và tàn quân Nguyên chạy về được Cao Ly thì chỉ còn lại khoảng gần 3 vạn người.
 
Người Nhật tin rằng các vị thần của họ đã gửi những cơn bão để bảo vệ Nhật Bản khỏi quân Mông Cổ. Họ gọi cơn bão là ''kamikaze'' hay "thần phong". Hốt Tất Liệt dường như đã tin rằng Nhật Bản được bảo vệ bởi các lực lượng [[siêu nhiên]] và thất bại nặng nề tại đây làm ông chùn bước đôi chút, nhưng ông vẫn giữ tham vọng xâm lược đảo quốc này và thậm chí còn có ý định phát động cuộc xâm lược lần thứ ba. Nhưng chuyện này đã không bao giờ xảy ra vì sau thất bại tại Nhật Bản, đạo quân "bách chiến bách thắng" của Đế quốc Mông Cổ tiếp tục nếm mùi thảm bại, thậm chí còn nặng nề hơn ở [[Đại Việt]] vào [[Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2|năm 1285]] và [[Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3|năm 1287-1288]], đến lúc này thì Hốt Tất Liệt mới quyết định từ bỏ tham vọng chinh phục đảo quốc này.
 
== Hậu quả ==
Đế chế Mông Cổ sau khi bị đánh bại tại Nhật Bản đã mất phần lớn sức mạnh hải quân, khả năng phòng thủ của hải quân cũng bị suy giảm đáng kể.<ref name = "wang00">Wang Yong, ''中国史のなかの日本像'' Section 2 of Chapter 6. Nousangyoson bunka Kyōkai, 2000, {{ISBN|9784540001710}}</ref> Cao Ly, nước chịu trách nhiệm đóng tàu cho cuộc xâm lược, cũng mất đi khả năng đóng tàu và khả năng phòng thủ trên biển do một lượng lớn gỗ đã bị đốn hạ.<ref name = "oota01">Hiroki Ōta, ''高麗の艦船用材木事情 元の日本遠征に関連して''. pp.2-20. Geirinkai, 1988, {{NAID|40000975703}}</ref> Trong khi đó tại Nhật Bản, không có thêm đất mới giành được vì đây là một cuộc chiến tranh phòng thủ, vì vậy Mạc phủ Kamakura không thể ban thưởng cho các chư hầu gokenin đã tham gia trận chiến, quyền lực của họ cũng bị giảm sút.<ref>Davis, Paul K. (2001). {{Google books|nv73QlQs9ocC|''100 decisive battles: from ancient times to the present,'' p. 146.|page=146}}</ref> Sau đó, lợi dụng tình hình này, số lượng người Nhật gia nhập các băng [[hải tặc]] ([[wokou]]) bắt đầu tăng lên, các cuộc tấn công vào bờ biển của Trung Quốc và Cao Ly ngày càng gia tăng.<ref name = "wang00"/>
 
Kết quả của cuộc chiến này dẫn đến việc ở Trung Quốc ngày càng có nhiều sự công nhận rằng người Nhật dũng cảm và hung bạo, cũng như tiến hành xâm lược Nhật Bản là vô ích. Vào thời [[nhà Minh]], việc phát động chiến tranh xâm lược Nhật Bản đã được thảo luận ba lần, nhưng nó chưa bao giờ được tiến hành nếu xét đến kết quả của cuộc chiến này.<ref name = "wang01">Wang Yong, ''中国史のなかの日本像'' Section 3 of Chapter 6. Nousangyoson bunka Kyōkai, 2000, {{ISBN|9784540001710}}</ref><ref>Michihiro Ishihara ''新訂 旧唐書倭国日本伝・ 宋史日本伝・元史日本伝―中国正史日本伝〈2〉'', pp.213-216. Iwanani bunko, 1986 {{ISBN|978-4003340219}}</ref><ref name = "oota02">Hiroki Ōta, ''明朝による日本征討論の顛末-元帝国の遠征失敗から得た教訓'' pp.1-24, 政治経済史学478, 2006 {{NAID|40015220057}}</ref>
Người Nhật tin rằng các vị thần của họ đã gửi những cơn bão để bảo vệ Nhật Bản khỏi quân Mông Cổ. Họ gọi cơn bão là ''[[kamikaze]]'', hay "cơn gió thần". Hốt Tất Liệt dường như đã tin rằng Nhật Bản được bảo vệ bởi các lực lượng [[siêu nhiên]], do đó ông quyết định từ bỏ tham vọng chinh phục đảo quốc này.
 
== Tham khảo ==