Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mitsubishi F-2”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n dọn dẹp using AWB
Dòng 14:
|more users=
|produced= 1995–2011
|number built= 94, cộng thêm 4 nguyên mẫu<ref name="Count94">{{citechú thích web|url=https://www.forbes.com/feeds/ap/2008/04/08/ap4868517.html|title=Lockheed Martin Gets $250M F-2 Contract|accessdate=ngày 9 tháng 4 năm 2008-04-09|year=2008}} {{Dead link|date=November 2010|bot=H3llBot}}</ref>
|unit cost= 12 triệu [[Yên]]; 127 triệu [[USD]] (không đổi 2009 USD)<ref name="globalsecurity">{{citechú thích web|url=http://www.globalsecurity.org/military/world/japan/f-2.htm|title=F-2 Support Fighter / FSX|author=John Pike|publisher=|accessdate=ngày 1 Februarytháng 2 năm 2016}}</ref>
|developed from= [[General Dynamics F-16 Fighting Falcon]]
|variants with their own articles=
}}
|}
F-2 là [[máy bay tiêm kích]] do [[Nhật Bản]]-[[Hoa Kỳ]] hợp tác nghiên cứu sản xuất. Được sản xuất bởi [[Mitsubishi Heavy Industries]] và [[Lockheed Martin]] cho [[lực lượng phòng vệ]] [[Nhật Bản]] với tỷ lệ 60% phía [[Nhật Bản]] và 40% phía [[Hoa Kỳ]]. Trong số những hãng lớn về công nghệ như [[General Electric]], [[Kawasaki]], [[Honeywell]], [[Raytheon]], [[NEC]], và [[Kokusai Electric]] mỗi hãng sẽ chịu trách nhiệm về những bộ phận khác nhau, cuối cùng việc lắp ráp sẽ làm tại Nhật Bản bởi MHI. Việc sản xuất bắt đầu năm 1996 và chiếc đầu tiên được đưa vào phục vụ năm 2000. Đây là loại máy bay đa năng, được phát triển dựa trên loại [[General Dynamics F-16 Fighting Falcon|F-16 Fighting Falcon]], bay thử lần đầu tiên vào 07-ngày 7 tháng 10- năm 1995. Hiện tại có 90 chiếc được trang bị cho lực lượng phòng vệ [[Nhật Bản]], nó được coi là loại máy bay đa năng thuộc vào loại đắt nhất thế giới với giá tiền là 108 triệu USD/chiếc (2004).
==Cái nhìn tổng quát==
Dòng 33:
[[Tập tin:F110-IHI-129 01.jpg|nhỏ|200px|Động cơ của F-2]]
[[Tập tin:F-2 Japan Self-Defense Forces Fighter 001.jpg|nhỏ|200px|F-2 tại căn cứ]]
Tháng 3 năm 1985, dựa trên các đề xuất của JASDF, Mitsubishi Heavy Industries đã đệ trình lên [[Nội các Nhật Bản|Chính phủ Nhật Bản]] một dự án phát triển máy bay chiến đấu mới mang tên JF-210 (hay còn gọi là chương trình FS-X), bề ngoài tương tự JAS-39 Gripen của Thụy Điển. Dự án này áp dụng thiết kế đuôi dọc và 2 động cơ, đường khí vào đặt bên dưới buồng lái, 2 động cơ F404, trọng lượng cất cánh 11,5 tấn, tốc độ tối đa 1,9 Mach, khi mang theo 4 quả tên lửa chống hạm ASM sẽ có bán kính tác chiến khoảng 930 &nbsp;km.
 
Có thể thấy, chương trình FS-X của Nhật Bản là đầy tham vọng, nhưng không thể thực hiện. Sau đó, FS-X đứng trước 3 sự lựa chọn: Một là, độc lập phát triển. Hai là, cải tiến máy bay chiến đấu hiện có. Ba là, mua máy bay chiến đấu của nước ngoài.
Dòng 55:
Hai cánh chính của máy bay lại chế tạo ở hai bờ Thái Bình Dương, có thể gọi là có một không hai. Mitsubishi Electric Corporation – Nhật Bản chịu trách nhiệm về radar điều khiển hỏa lực và hệ thống tác chiến điện tử, còn công ty General Electric – Mỹ chịu trách nhiệm về động cơ. Cuối cùng, F-2 phát triển thành công đã áp dụng bố cục tổng thể là 1 động cơ, đuôi buông đơn, đường biên lớn, tích hợp cánh và thân, đường khí vào ở bụng, nhìn vào ngoại hình hầu như không có gì khác biệt so với F-16, kích cỡ của hai loại máy bay này cũng khác biệt không nhiều, sải cánh và chiều dài của F-2 chỉ lớn hơn một chút, chiều cao thấp hơn một chút. Máy bay chiến đấu F-2 sử dụng F-16C Block 40/42 làm nền tảng, trong đó các bộ phận phát triển mới chiếm khoảng 50%.
 
Dựa vào yêu cầu của JASDF, về thiết kế, F-2 chủ yếu được cải tiến như sau: thân máy bay dài thêm 40 &nbsp;cm nhằm tăng lượng tải nhiên liệu; thay đổi hình dáng phần đầu máy bay để lắp thiết bị radar mới; tăng thêm 25% diện tích cánh cánh thân máy bay và cánh đuôi để tăng tải trọng và hành trình, giảm sức tải cho mặt cánh; cánh sử dụng công nghệ vật liệu composite tiên tiến, chứ không như truyền thống; thân máy bay và đuôi cũng sử dụng vật liệu composite và áp dụng thiết kế kết cấu khá nhẹ; áp dụng công nghệ bảo đảm tính ổn định, khả năng kiểm soát, điều khiển và tính cơ động tốt hơn; đổi lắp đặt động cơ F110-GE-129 có sức đẩy lớn hơn; đổi lắp đặt hệ thống tác chiến điện tử và radar kiểm soát hỏa lực tiên tiến do Nhật Bản tự nghiên cứu phát triển, tính năng ưu việt hơn của Mỹ; sử dụng thiết bị buồng lái mới và thiết bị chắn gió tăng cường kiểu 2 mảnh có thể mang theo tên lửa không đối không AAM-3, AAM-4 và tên lửa chống hạm ASM-1, ASM-2 do Nhật Bản tự sản xuất; ở cạnh trước của cánh chính và các bộ phận khác đã sử dụng vật liệu thu sóng, đã nâng cao được khả năng tàng hình; tăng cường thêm “ô” giảm tốc độ để giảm khoảng cách hạ cánh của máy bay.
 
Trong thiết kế buồng lái, với việc áp dụng đầy đủ thiết kế công nghệ hiện đại, buồng lái của F-2 đã đạt trình độ tương đối tiên tiến trên một số mặt. Giống với máy bay chiến đấu F/A-18 của Mỹ, IDF của Đài Loan và rất nhiều máy bay chiến đấu cải tiến khác, mặc dù trong buồng lái của chúng đã sử dụng máy hình hiển thị đa chức năng 2-3 ống tia âm cực (CRT), nhưng dáng vẻ vẫn giữ truyền thống, chủ yếu là do mọi người còn hoài nghi về độ tin cậy của màn hình hiển thị CRT. Còn máy bay F-2 đã áp dụng màn hình hiển thị đa chức năng hiển thị tinh thể lỏng cỡ lớn (LCD) và HUD do Công ty Shimadzu và Yokogawa của Nhật Bản sản xuất. Cả hai đều được lắp đặt ở chính giữa, HUD ở trên, LCD ở dưới. HUD có tác dụng như một “mui xe” (che ánh sáng), cho dù trong điều kiện tia sáng khá mạnh, phi công cũng có thể nhìn rõ những hiển thị trên màn hình hiển thị ICD. Dưới HUD còn có 2 màn hình hiển thị đa chức năng truyền thống. Như vậy, dáng vẻ đã thay đổi rất nhiều, sở dĩ như vậy là do độ tin cậy của công nghệ hiển thị LCD cao hơn nhiều so với CRT. Hơn nữa, LCD còn tiên tiên hơn nhiều CRT, đây là ưu điểm của buồng lái máy bay F-2. Nhưng, trong rất nhiều máy bay hiện đại (gồm cả máy bay mới xuất hiện), buồng lái vẫn giữ thiết kế truyền thống, để thay đổi cần có thời gian.