Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Browning M1918”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 28:
'''M1918 Browning Automatic Rifle''' là loại [[súng máy hạng nhẹ]] được quân đội [[Hoa Kỳ|Mỹ]] sử dụng rộng rãi trong [[Thế chiến 1]] (cuối cuộc chiến), [[Thế chiến 2]] và nhiều cuộc chiến khác nữa. Đây là một trong những sản phẩm được biết đến nhiều nhất của nhà thiết kế [[John Browning]]. Mặc dù tên của nó là "Browning Automatic Rifle" (Súng trường tự động Browning) nhưng trên thực tế nó là súng máy hạng nhẹ (trung liên). Browning Automatic Rifle được quân Mỹ gọi bằng cái tên khác ngắn gọn hơn là '''trung liên BAR''' (hay là '''trung liên M1918)'''. Khẩu BAR có nhiều biến thế khác nhau, nhưng nổi tiếng nhất trong số chúng là 2 biến thể: M1918 BAR và M1918A2 BAR.
 
[[Quân đội Mỹ]] tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] từ năm [[1917]]. Một trong những hỏa lực bộ binh của họ là những khẩu súng máy nạp đạn bằng dây đạn (như khẩu Colt - Vickers 1915 hay khẩu [[Browning M1917]]). Cha đẻ của khẩu [[Browning M1917]], ông [[John Browning]] đã tạo ra một thiết kế mới, Súng trường tự động Browning. Súng sở hữu thiết kế khá hiện đại khi có nút chọn chế độ bắn (ở phía bên trái của khẩu súng), có ốp lót tay rất hiện đại nhưng lại không có tay cầm (vào thời điểm cuối Thế chiến 1 (thời điểm mà súng được thiết kế) thì khẩu BAR được coi như một khẩu [[súng trường tấn công]]). Quá trình lên đạn của súng hoàn toàn tự động nhờ áp dụng cơ chế [[tríchTrích khí]] (trích khí dài). Súng nạpsử đạn bằngdụng hộp tiếp đạn 20 viên để nạp đạn. Bất kỳ người lính nào khi sử dụng súng này đều có 2 tư thế bắn cơ bản, đó là bắn khi tì vai (bắn như súng trường, khi cần sự chính xác cao) và bắn từ hông (bắn như súng máy, khi cần áp chế hỏa lực địch với độ chính xác không cần quá cao). Cỡ đạn .30-06 Springfield mang lại cho khẩu BAR sức mạnh đáng gờm. Khẩu súng được dùng để dọn dẹp các chiến hào trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến. Trong vòng 3 năm (từ 1915 đến 1917), cả hai phe tham chiến trong Thế chiến 1 là phe [[Liên minh Trung tâm|Liên minh]] và phe [[Phe Hiệp Ước|Hiệp Ước]] lâm vào tình thế bế tắc trong chiến tranh hầm hào. Những chiến hào dài nhiều cây số là nơi mà binh lính của cả hai bên nã đạn về phía đối phương bằng những khẩu súng máy nặng nề, kém cơ động. Khẩu BAR xuất hiện và có tác động không nhỏ tới cuộc chiến. Phe [[Phe Hiệp Ước|Hiệp Ước]] lúc này đã có hỏa lực mạnh và cơ động hơn.
 
Sau khi Thế Chiến 1 kết thúc thì khẩu BAR bị loại khỏi biên chế của quân đội Mỹ. Phải đến tận năm [[1938]] thì khẩu BAR mới được đưa vào trang bị trở lại trong biên chế của quân đội Mỹ với cái tên M1918A2 BAR. Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] thì khẩu BAR được nhìn thấy sử dụng hết sức rộng rãi bởi bộ binh và lính dù Mỹ trên cả 2 chiến trường (mặc dù nó bị phê bình là hơi dài và nặng đối với lính dù Mỹ) là [[Chiến trường châu Âu (Thế chiến thứ hai)|chiến trường châu Âu]] và [[chiến trường Thái Bình Dương]] với vai trò là súng máy hạng nhẹ tiêu chuẩn cấp tiểu đội, chuyên dùng để yểm trợ hỏa lực hạng nhẹ cho bộ binh và lính dù Mỹ tấn công, tiêu diệt đối phương. Phiên bản M1918A2 BAR được sử dụng trong cuộc chiến này được gắn thêm chân chống hình chữ V (có thể duỗi ra và cụp lại) để giúp cho lính Mỹ có tư thế chiến đấu được an toàn và thoải mái hơn.