Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệp ước bất bình đẳng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Chinese|t={{linktext|不平等條約}}|s={{linktext|不平等条约}}|w=pu1 p'ing2 teng3 t'iao2 yüeh1|p=bù-píngděng tiáoyuē|j=bat1 ping4 dang2 tiu4 joek3|kanji=不平等条約|kana=ふびょうどうじょうやく|romaji=fu byōdō jōyaku|hangul=불평등 조약|hanja=不平等條約|rr=bul-pyeong-deung jo-yak|mr=pul-p'yŏng-dŭng cho-yak}}
 
'''Hiệp ước bất bình đẳng''' là tên Trung văn của các điều ước [[Nhà Thanh]] ký kết với các nước phương Tây, Nga và [[Đế quốc Nhật Bản|Đại Nhật Bản]] trong thế kỷ 19 và 20, tất cả đều bị áp đặt sau khi Trung Quốc thua trận trong quân sự hoặc bị đế quốc nước ngoài đe dọa.
 
Thập niên 20, [[chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc]] và phản đế nổi dậy, [[Trung Quốc Quốc dân Đảng|Quốc dân Đảng]] lẫn [[Đảng Cộng sản Trung Quốc|Cộng sản Đảng]] dùng khái niệm dị đẳng mà bày tỏ trải nghiệm mất chủ quyền giữa năm 1840 và 1950, sau gắn liền với "[[Bách niên quốc sỉ|bách niên sỉ nhục]]" của Trung Quốc, đặc biệt các tô giới cho ngoại quốc thuê và mất tự trị thuế quan bởi các cảng điều ước.
Dòng 10:
[[File:China_imperialism_cartoon.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:China_imperialism_cartoon.jpg|nhỏ|Biếm họa chính trị Pháp năm 1898, ''Trung Quốc – bánh kem của các Vua và Hoàng đế'', cho thấy Anh, Đức, Nga, Pháp và Nhật phân chia Trung Quốc]]
[[File:EightNationsCrime02.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:EightNationsCrime02.jpg|nhỏ|[[Liên quân tám nước|Liên quân Tám nước]] bên trong [[Cố Cung (Bắc Kinh)|Cố cung]], trong buổi lễ ăn mừng sau khi ký kết Điều ước Tân Sửu, 1901]]
Ở Trung Quốc, "hiệp ước bất bình đẳng" dùng lần đầu tiên đầu thập niên 20. Giáo sư Trung sử đương đại hiện đại Vương Đống (王栋) nhận định "tuy từ lâu cụm từ đã dùng rộng rãi, nhưng vẫn thiếu định nghĩa sáng sủa rõ ràng" và "không có sự đồng ý về số hiệp ước Trung Quốc ký với nước ngoài nên coi là 'bất bình đẳng'."<ref name="wang">Wang, Dong. (2005). ''China's Unequal Treaties: Narrating National History''. Lanham, Maryland: Lexington Books. pp. 1–2. {{ISBN|9780739112083}}.</ref> Sử gia Từ Trung Ước giải thích Trung Quốc coi các hiệp ước là bất bình đẳng "bởi không được thương lượng dựa trên sự bình đẳng, nhưng bị áp đặt lên Trung Quốc sau các cuộc chiến, và vi phạm chủ quyền ... biến Trung Quốc thành nước bán thuộc địa".<ref>Hsu, Immanuel C. Y. (1970). ''The Rise of Modern China''. New York: Oxford University Press. p. 239. {{ISBN|0195012402}}.</ref> Sử gia Elizabeth Cobbs phản hồi viết, "Trớ trêu thay, các hiệp ước như vậy được kí kết cũng tạido Trung Quốc luôn ngần ngại khi cân nhắc bất kỳ điều ước nào, xem mọi nước như bé hèn thấp kém. Trung Quốc không muốn được bình đẳng."<ref>Cobbs, Elizabeth (2013). ''American Umpire''. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. p. 111. {{ISBN|9780674055476}}.</ref>
 
Trong nhiều trường hợp, Trung Quốc buộc phải trả khoản bồi thường chiến tranh lớn, khai quan mở cảng cho ngoại thương, nhượng lại hay cho thuê lãnh thổ (như [[Priamurye|Ngoại Đông Bắc]] và [[Tây Bắc Trung Quốc|Ngoại Tây Bắc]] (bao gồm luôn Zhetysu) cho [[Đế quốc Nga|Nga]], [[Hồng Kông|Hương Cảng]] và [[Uy Hải Vệ dưới thời cai trị của Anh|Uy Hải Vệ]] cho Anh, [[Quảng Châu Loan]] cho Pháp, [[Quan Đông Châu]] và [[Đài Loan thuộc Nhật|Đài Loan]] cho [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật]], Giao Châu Loan cho [[Đế quốc Đức|Đức]] và các tô giới ở Thiên Tân, Sa Diện, [[Hán Khẩu]], [[Thượng Hải]] ... ), cũng như nhượng lại chủ quyền cho nước ngoàigây ảnh hưởng, sau đe dọa quân sự. HiệpThảo ước sớm nhất sau gọi "bất bình đẳng" được ghi nhận sớm nhất là Thảo ước Xuyên Tị trong [[Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất|Chiến tranh Nha phiến thứlần nhấtđầu]]; hiệp ước "bất bình đẳng" đầu tiên giữa Trung Quốc và Anh là [[Điều ước Nam Kinh|Hiệp ước Nam Kinh]] năm 1842. Sau khi Nhà Thanh thua trận, hiệp ước với Anh khai mở năm cảng cho nước ngoài buôn bán, trong khi cho phép các truyền giáo sĩ trêntruyền quy tắcđạo lưu trú ở Trung Quốc. Ngoài ra, cư dân nước ngoài ở các thành phổ cảng không bị pháp chế Trung Quốc chi phối mà lạichịu chínhsự lĩnhquản lý của lãnh sự quán nước mình, gọi là pháp quyền trị ngoại.<ref>Dong Wang, ''China's Unequal Treaties: Narrating National History'' (Lanham, Md.: Lexington Books, 2005).</ref> Theo các hiệp ước, Anh và Hoa Kỳ thành lập Tòa án tối cao Anh cho Trung Nhật và Tòa án Mỹ cho Trung Quốc ở Thượng Hải.
 
=== Trung Quốc oán giận ===
Sau [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]], tinh thần yêu nước ở Trung Quốc tập trung vào các điều ước, công nhận là "bất bình đẳng". Quốc dân Đảng lẫn Cộng sản Đảng cạnh tranh thuyết phục dân chúng phương pháp của họchọ sẽ có hiệu quả hơn.<ref>Dong Wang, ''China's Unequal Treaties: Narrating National History'' (Lanham, Md.: Lexington Books, 2005).</ref> Đức buộc phải chấm dứt quyền lợi, Liên Xô từ bỏ, Hoa Kỳ tổ chức Hội nghị Washington để thương lượng lại. Sau khi [[Tưởng Giới Thạch]] tuyên bố thành lập chính phủ mới năm 1927, các nước phương Tây thừa nhận ngoại giao nhanh,đã khiến Nhật Bản lo lắng.<ref>Akira Iriye, ''After Imperialism: The Search for a New Order in the Far East, 1921–1931'' (Cambridge: Harvard University Press, 1965; Reprinted: Chicago: Imprint Publications, 1990), ''passim''.</ref> Chính phủ mới công bố Trung Quốc đã bị bóc lột trong hàng chục thế kỷnăm theo các hiệp ước bất đình đẳng, nay đã hết thời, yêu cầu thương lượng lại tất cả trên địa vị bình đẳng.<ref>{{cite news|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,786420,00.html|title=CHINA: Nationalist Notes|date=June 25, 1928|newspaper=TIME|accessdate=April 11, 2011}}</ref> Tuy nhiên, phải hoãn lại bởi Nhật Bản đang bành trướng ở Trung Quốc.
 
Hầu hết các hiệp ước coi là bất bình đẳng bị bãi bỏ trong [[Chiến tranh Trung – Nhật|Chiến tranh Nhật–Trung]], bắt đầu năm 1937, cấu thành một phần [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]. Quốc hội Mỹ chấm dứt pháp quyền ngoại trị tháng 12 năm 1943. Có vài ngoại lệ: hiệp ước về Hồng Kông duy trì hiệu lực cho đến [[Chuyển giao Hồng Kông|cuộc chuyển giao năm 1997]]; năm 1969, Trung Quốc buộc phải tái khẳng định [[Điều ước Ái Hồn]] năm 1858 để cải thiện quan hệ Trung-Liên sau [[Xung đột biên giới Trung-Xô|xung đột biên giới]].
 
== Nhật Bản và Triều Tiên ==
Khi hạm trưởng Mỹ [[Matthew C. Perry|Matthew Perry]] đến Nhật năm 1854, [[Hiệp ước Kanagawa]] được ký kết, nhưng không quan trọng lắm. Trọng đại hơn là Hiệp ước Harris năm 1858 do phái viên Townsend Harris thương lượng.<ref>{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=bS3w6tGiraEC&pg=PA44|title=Negotiating with Imperialism: The Unequal Treaties and the Culture of Japanese Diplomacy|author=Michael R. Auslin|publisher=Harvard University Press|year=2006|isbn=9780674020313|pages=17, 44|authorlink=Michael Auslin}}</ref>
 
Hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên của Triều Tiên không phải với phương Tây, mà với Nhật Bản. Năm 1875, sự kiện Đảo Giang Hoa xảy ra, Nhật phái hạm trưởng Inoue Yoshika cùng chiến hạm ''Un'yō'' đi tỏ quân lực với Triều Tiên, buộc Triều Tiên phải ký ''[[Điều ước Nhật–Triều 1876|Điều ước Nhật–Triều năm 1876]]'' khai quan mở cảng cho Nhật.<ref>Preston, Peter Wallace. [1998] (1998). Blackwell Publishing. Pacific Asia in the Global System: An Introduction. {{ISBN|0-631-20238-2}}</ref>
 
Các hiệp ước bất bình đẳng chấm dứt ở các thời điểm khác nhau cho hai nước. [[Chiến tranh Thanh – Nhật|Chiến tranh Nhật–Thanh]] năm 1894-95 thuyết phục phương Tây rằng các điều ước không còn có thể thi hành với Nhật. CủaCác hiệp ước của Triều Tiên với các nước châu Âu hầu hết mất hiệu lực năm 1910, khi bị Nhật Bản sát nhập.<ref>I. H. Nish, "Japan Reverses the Unequal Treaties: The Anglo-Japanese Commercial Treaty of 1894," ''Journal of Oriental Studies'' (1975) 13#2 pp 137-146.</ref>
 
== Danh sách hiệp ước kén chọn ==