Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Honduras thuộc Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thay tập tin Full_Arms_of_British_Honduras.svg bằng tập tin Coat_of_arms_of_British_Honduras_(1907-1967).svg (được thay thế bởi CommonsDelinker vì lí do: File renamed: Criterion 2 (meaningl
n clean up using AWB
Dòng 31:
|national_anthem = {{plainlist|
*[[Chúa phù hộ Nữ hoàng]] (1862–1901; 1952–1981)
* [[Chúa phù hộ Nữ hoàng|Chúa phù hộ Quốc vương]] (1901–1952) <center>[[FileTập tin:United States Navy Band - God Save the Queen.ogg]]}}
|capital = {{plainlist|
*[[Thành phố Belize]] <small>(1862–1971)</small>
Dòng 38:
|currency = [[Đô la Belize|Đô la Honduras thuộc Anh]]
|stat_area1 = 22966
|stat_year2 = 1861<ref name=asacensus>{{citechú thích web|title=Uniformity and Co-Operation in the Census Methods of the Republics of the American Continent|url=https://archive.org/stream/jstor-2275965/2275965#page/n11/mode/2up|publisher=American Statistical Association|accessdate=ngày 26 Decembertháng 12 năm 2013|pages=305–308|year=1908}}</ref>
|stat_area2 = <!-- diện tích bằng bằng hình vuông kílometres (w/o dấu phẩy hoặc dấu cách), khu vực trong dặm vuông được tính -->
|stat_pop2=25.635
Dòng 45:
{{Lịch sử Belize}}
 
'''Honduras thuộc Anh''' là thuộc địa Vương quốc Anh trên bờ biển phía đông của Trung Mỹ, phía nam Mexico, từ 1862 đến 1964, sau đó là thuộc địa tự quản, đổi tên thành Belize vào tháng 6 năm 1973,<ref name="caricom">[http://www.caricom.org/jsp/community/belize.jsp CARICOM - Member Country Profile - BELIZE] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20150319161604/http://www.caricom.org/jsp/community/belize.jsp |date=ngày 19 Marchtháng 3 năm 2015 }}, [[Caribbean Community]]. (accessed ngày 23 Junetháng 6 năm 2015)</ref> cho đến tháng 9 năm 1981, khi nó giành được độc lập hoàn toàn Belize. Honduras của Anh là thuộc địa lục địa cuối cùng của Vương quốc Anh ở [[châu Mỹ]].
 
Thuộc địa phát triển từ [[Hiệp ước Versailles (1783)]] giữa Anh và Tây Ban Nha, cho phép người Anh cắt gỗ tròn giữa sông Hondo và Belize. Các ước của London (1786) mở rộng nhượng bộ này bao gồm khu vực giữa Belize và [[sông Sibun]].<ref>{{citechú bookthích sách|last=Twigg|first=Alan|title=Understanding Belize: A Historical Guide|year=2006|publisher=Harbour Publishing|location=Madeira Park, BC|isbn=1550173251|pages=57–58}}</ref> Năm 1862, khu định cư Belize ở vịnh Honduras được tuyên bố là thuộc địa của Anh có tên là Honduras của Anh, và đại diện của Vương quốc Anh được nâng lên một vị phó toàn quyền, trực thuộc Toàn quyền Jamaica.<ref name=cs>Bolland, Nigel. "Belize: Historical Setting". In [https://web.archive.org/web/19990117033536/http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/bztoc.html ''A Country Study: Belize''] (Tim Merrill, editor). [[Library of Congress]] [[Federal Research Division]] (January 1992). ''This article incorporates text from this source, which is in the [[public domain]].''</ref>
 
<!--
Dòng 90:
Người thất nghiệp, đòi tiền mặt, chuyển sang Antonio Soberanis Gómez(1897–1975), người lên án các lãnh đạo của Lữ Đoàn Thất Nghiệp là kẻ hèn nhát. Anh ta nói rằng anh ta sẽ tiếp tục chiến đấu vì nguyên nhân và anh ta không sợ chết. Trong câu nói nổi tiếng nhất của mình, ông nói, "Tôi muốn trở thành một anh hùng đã chết hơn là một kẻ hèn nhát sống". Tại một cuộc họp ngày 16 tháng 3 năm 1934, ông tiếp quản phong trào này, trở thành Hội Lao động và Thất nghiệp (LUA). Trong vài tuần tới, Soberanis và các đồng nghiệp của ông trong LUA đã tấn công Thống đốc và các quan chức của ông, các thương nhân giàu có, và Công ty sản xuất và bất động sản Belize trong các cuộc họp hai tuần một lần với 600 đến 800 người tham dự. Các công nhân yêu cầu cứu trợ và mức lương tối thiểu. Họ chấp nhận các yêu cầu của họ trong các thuật ngữ đạo đức và chính trị rộng lớn đã bắt đầu xác định và phát triển một nền văn hóa chính trị dân chủ và dân chủ mới.
 
Soberanis bị bắt giam dưới một mới xúi giục nổi loạn pháp luật trong năm 1935. Tuy nhiên, kích động lao động đạt được một thỏa thuận tuyệt vời. Tầm quan trọng nhất là sự sáng tạo của công việc cứu trợ bởi một Thống đốc đã xem nó như một cách để tránh rối loạn dân sự. Công nhân xây dựng hơn 300 km đường. Thống đốc cũng ép cho một chính phủ bán đại diện. Nhưng khi hiến pháp mới được thông qua vào tháng 4 năm 1935, nó bao gồm cả nhượng quyền hạn chếđược yêu cầu bởi đa số các Hội đồng Lập pháp được bổ nhiệm, mà không có quan tâm đến việc thúc đẩy dân chủ. Các tiêu chuẩn đủ điều kiện của cử tri cao về tài sản và thu nhập đã giới hạn cử tri đến 2 phần trăm dân số giàu có nhất. Do đó, người nghèo không thể bỏ phiếu; họ chỉ có thể hỗ trợ các thành viên của tầng lớp trung lưu Creole chống lại các ứng viên kinh doanh lớn. Đảng chính trị của công dân và LUA đã ủng hộ Robert Turton và Arthur Balderamos, một luật sư Creole, người đã thành lập phe đối lập chính trong hội đồng mới năm 1936. Sự kích động của tầng lớp công nhân tiếp tục, và năm 1939 tất cả sáu chỗ ngồi trên Ban Belize Town ( yêu cầu bỏ phiếu cho phép cử tri đại diện hơn) đã đi đến tầng lớp trung lưu Creoles, người tỏ ra thông cảm hơn với lao động.
 
Những thành tựu lớn nhất của sự kích động của những năm 1930 là cải cách lao động được thông qua giữa năm 1941 và 1943. Công đoàn đã được hợp thức hóa vào năm 1941, nhưng luật pháp không yêu cầu người sử dụng lao động công nhận các công đoàn này. Hơn nữa, các điều khoản hình sự của Đạo luật cũ và công chức đã cho thấy những quyền mới không hiệu quả. Các nhà tuyển dụng trong số các thành viên không chính thức tại Hội đồng Lập pháp đã đánh bại một dự luật để bãi bỏ các điều khoản hình sự này vào tháng 8 năm 1941, nhưng Bill của Chủ doanh nghiệp và Người lao động đã thông qua ngày 27 tháng 4 năm 1943, cuối cùng đã xóa hợp đồng lao động vi phạm khỏi mã tội phạm Các công đoàn trẻ sơ sinh của Honduras theo đuổi cuộc đấu tranh để cải thiện điều kiện lao động. Các Liên minh Công nhân chung(GWU), được đăng ký vào năm 1943, nhanh chóng mở rộng thành một tổ chức trên toàn quốc và hỗ trợ quan trọng cho phong trào dân tộc đã diễn ra với sự hình thành của Đảng Nhân dân (PUP) vào năm 1950. Do đó thập niên 1930 là chén nung của chính trị Belizean hiện đại. Đó là một thập kỷ mà trong đó hiện tượng cũ của điều kiện lao động bóc lột và quan hệ thực dân và công nghiệp bắt đầu nhường chỗ cho lao động mới và các quy trình và thể chế chính trị.