Khác biệt giữa bản sửa đổi của “M1903 Springfield”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 35:
[[Hình:Rifle Springfield M1903A1.jpg|thumb|300px|Phiên bản M1903 Springfield với loại báng khác.]]
[[Hình:Rifle Springfield M1903A4 with M84 sight.jpg|thumb|300px|Phiên bản bắn tỉa M1903A4 Springfield với ống nhắm M84.]]
Trước khi khẩu M1903 Springfield ra đời thì quân đội [[Hoa Kỳ]] sử dụng phổ biến súng trường Springfield 1892-99 do Springfield Armory thiết kế theo mẫu [[Krag-Jørgensen]] của [[Đan Mạch]]. Trong khi đó, các cường quốc quân sự lớn trên thế giới khi đó như: Đức (Mauser Gewehr 98), Anh ([[Lee-Enfield]]), Pháp (Lebel 1886), Áo-Hung (Mannlincher 1895), đế quốc Nga (Mosin Nagant 1891), Nhật Bản (Arisaka Type 30),... đều đã có cho riêng mình những khẩu súng trường do họ tự nghiên cứu thiết kế và sản xuất nội địa. Chính phủ Mỹ nhận thấy rằng quân đội không thể sử dụng mãi những khẩu súng trường Springfield 1892-99 đó được. Quân đội Mỹ cần phải có một khẩu súng trường do chính người Mỹ thiết kế và sản xuất. Nhà máy vũ khí [[Springfield Armory]] nổi tiếng đã nhận nhiệm vụ thiết kế và họ hứacam kết với chính phủ Myc rằng họ sẽnhất định thiết kế rabằng được một khẩu súng trường mới có thể đáp ứng đúng như những gì mà chính phủ đãđang mong muốn. Sau đó, các kĩ sư trong ban thiết kế của nhà máy Springfield Armory đã thiết kế ra khẩu súng này với sự giúp đỡ từ phía các kĩ sư của nhà máy sản xuất vũ khí Mauser danh tiếng đến từ nước Đức. Đến đầu năm 1903 thì công việc thiết kế được hoàn thành và mẫu súng được đặt tên là '''M1903 Springfield'''. Vào giữa năm 1903, Quân đội Mỹ cũng chấp nhận khẩu súng trường này trong biên chế và họ bắt đầu tổ chức sản xuất hàng loạt khẩu súng này từ khoảng cuối năm 1903. Khẩu súng này được thiết kế với khoảng 60% yếu tố là dựa theo khẩu Springfield 1892-99 (Springfield Armory sản xuất Krag-Jorgensen tại Mỹ (với một số sửa đổi) theo giấy phép do Đan Mạch cấp), khoảng 30% thì dựa vào khẩu Mauser 1893 mà quân đội Mỹ thu giữ được với số lượng lớn sau khi dành thắng lợi áp đảo trước quân Tây Ban Nha trong cuộc chiến [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ|Tây Ban Nha–Mỹ]] (1898) và khoảng 10% còn lại thì do hãng Springfield tự thiết kế khác biệt cho súng.
 
==Trong thế chiến thứ nhất==
Dòng 41:
 
==Trong thế chiến thứ hai==
Khi [[chiến tranh thế giới thứ hai|thế chiến thứ hai]] diễn ra, vì quân đội Mỹ đã đưa vào sử dụng mẫu súng trường bán tự động danh tiếng [[M1 Garand]] (sau này còn có thêm cả mẫu [[M1 Carbine]]) nên số lượng súng trường M1903 Springfield được sử dụng đã bị ít dần đi. Một phần lớn số súng trường M1903 Springfield đã được giao lại cho những người [[Xạ thủ bắn tỉa|lính bắn tỉa]], lính [[Hải quân Hoa Kỳ|hải quân]] và một số người [[Binh chủng nhảy dù|lính dù]], nó cũng được dùng rất nhiều bởi thủy quân lục chiến vào những ngày đầu của mặt trận Thái Bình Dương. Khẩu súng trường M1903 Springfield có ưu điểm là khá nhẹ, độ chính xác cao nên cho dù có kính ngắm hay không có kính ngắm thì nó vẫn giữ được ưu thế của súng trường bắn tỉa. M1903 Springfield được biết là một trong những khẩu [[súng bắn tỉa]] mạnh nhất thời thế chiến thứ hai, may mắn thay đạn của M1903 Springfield sử dụng lại chính là loại đạn tiêu chuẩn của quân sự Mỹ suốt năm 1903 đến năm 1960s nên không có vấn đề gì trong việc cung cấp đạn cho nó, ống ngắm của M1903 Springfield là ống ngắm M84, một loại ống ngắm của súng trường [[M1 Garand]] nên việc cung cấp ống ngắm cho nó cũng rất dễ. Trong thế chiến thứ hai, quân đội Mỹ cũng thử dùng súng trường M1 Garand làm súng bắn tỉa nhưng lực giật của cây Garand tương đối lớn khiến những người lính bắn tỉa Mỹ rất khó bắn trúng quân địch, đặc biệt là Garand có thể nạp đạn bằng ổ đạn 8 viên vào phiên bản bình thường nhưng phải nạp đạn từng viên một cho phiên bản bắn tỉa vì ống nhắm đã chiếm gần hết vị trí của ổ tiếp đạn, chính lý do này đã làm binh lính Mỹ không thích phiên bản bắn tỉa của Garand cho lắm. Tuy khẩu Garand bắn nhanh nhưng thời gian nạp đạn chậm và giật nên những người lính bắn tỉa trong quân đội Mỹ đành phải thay thế khẩu Garand bằng M1903A4 Springfield. Quân đội Mỹ còn thương mại hóa mẫu súng này khivới số lượng lớn. họHọ bán nó cho người "hàng xóm thân thiện" Canada và gã đồng minh Anh quốc với số lượng lớn để họ2 nước này thêm vũ khí chống quân phát xít Đức. Trong Thế chiến 2, người Canada cũng sử dụng khẩu M1903 Springfield và đạn .30-06 của nó như là mẫu súng trường chiến đấu bắn phát một tiêu chuẩn để thay thế cho những khẩu súng trường Ross và cỡ đạn .280 Ross đã lạc hậu từ cuối Thế chiến 1 của họ.
 
==Những cuộc chiến khác==