Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kỳ lân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: . < → .< using AWB
Dòng 8:
 
=== Kỳ Lân ===
Lân có đầu nửa [[rồng]] nửa [[thú]], đôi khi chỉ có một [[sừng]], do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng [[nai]], [[tai]] [[chó]], [[trán]] [[lạc đà]], [[mắt]] quỷ, [[mũi]] [[sư tử]], miệng rộng, thân [[ngựa]], chân [[họ Hươu nai|hươu]], [[đuôi]] [[bò]]. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng ta khác tưởng tượng này, Điều có thể nhận ngay ra rằng khi nhìn vào hình tượng Kỳ Lân Việt Nam có chút khác so với Kỳ Lân Trung Quốc ở chỗ Kỳ Lân Việt Nam có đôi mắt to, mũi to, mõm ngắn đặc biệt phần đuôi xù ra hoặc rẽ quạt toát lên vẻ ngoài thân quen, vui vẻ, thân thiện hoạt bát dễ gần không ù lì, chễm chệ, dọa nạt như Kỳ Lân Trung Hoa. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội [[Hoa sen (Phật giáo)|tòa sen]], làm chỗ dựa cho [[Văn-thù-sư-lợi|Văn Thù bồ tát]] hay các [[Hộ pháp]], và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách này chúng xuất hiện cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thể chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương. Kỳ lân Việt Nam nó cũng không ăn thịt hay làm hại bất kỳ con vật nào và không bao giờ uống nước bẩn. Trong không gian kiến trúc của người Việt, có khi kỳ lân được bài trí thành từng cặp, đứng chầu trước cung điện của vua, đầu hướng về phía cung điện nhằm biểu hiện lòng trung thành; có khi kỳ lân được bài trí ở trước điện thờ, đền miếu, mặt hướng ra bên ngoài, biểu tượng cho sự tôn nghiêm, kính cẩn. Kỳ lân còn biểu hiện cho uy quyền của nhà vua, vì thế trên ngai vua triều Nguyễn có đôi kỳ lân dùng làm chỗ đặt chân của nhà vua. Kỳ lân còn là linh vật biểu trưng cho thái tử trong mối quan hệ: rồng (nhà vua) - kỳ lân (thái tử) - phượng hoàng (hoàng hậu). <ref name=":0">Thừa Thiên Huế Online, [http://baothuathienhue.vn/nhung-linh-vat-dat-viet-a1484.html "Những linh vật đất Việt"]</ref>
 
== Các hóa thân của Kỳ Lân ==
Dòng 23:
 
Cấp độ xuất hiện con nghê ngày càng dày đặc. Ngai vàng thời Nguyễn đều có đôi nghê chầu dưới. Nghê là sư tử thiêng. Thời Nguyễn, hai hình thái phổ biến, thiết đình ở điện Thái Hòa vẫn còn hình con nghê. Điều này khẳng định vị thế tối cao của nghê trong xã hội bấy giờ.[[Tập tin:Nghê đại cổ, làng gốm sứ Thanh Hải.jpg|thế=Nghê đại cổ|nhỏ|Nghê đại cổ, làng gốm sứ Thanh Hải, Việt Nam. Con nghê đại cổ thường đặt ở các công trình lớn như đình, chùa]]
Nghê không chỉ xuất hiện trong các làng quê Bắc Bộ mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình ở Huế. Trước cửa Hiển Nhơn và trước Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế có hai đôi nghê đá đứng chầu. Khác với hình tượng các con nghê ở đồng bằng Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, mang tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở 4 chân và sống lưng.<ref name=":0" />
 
<br />
 
==Chú thích==