Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Parthia”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Dưới thời Seleucid: clean up, replaced: Seleucus → Seleukos (2) using AWB |
n clean up, replaced: → (11) using AWB |
||
Dòng 1:
[[Tập tin:YoungManWithParthianCostume.jpg|nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra]], [[Syria]] vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. [[Bảo tàng Louvre]].]]
'''Người Parthia''' là một dân tộc miền đông bắc [[Iran|Ba Tư]]; họ là nền tảng chính trị và văn hóa của
Các văn bản [[Tiếng Anh|Anh ngữ]] hay gọi tên dân tộc này là "Parthia" xuất phát từ chữ ''Parthia'' trong [[latinh|tiếng Latin]], hay từ '''Parthava''' trong [[tiếng Ba Tư]], cũng có nghĩa trong tiếng Parthia là "của người Parthia".
Dòng 13:
== Lịch sử ==
=== Dưới triều đại Achaemenes ===
Là khu vực
Vào một thời điểm nào đó, một năm sau khi [[Cyrus Đại đế]] đánh bại vua Media là [[Astyages]], Parthia đã trở thành một trong những địa phương đầu tiên để xác nhận Cyrus là vua của họ: "và điều này
Sự nhắc đến đầu tiên về Parthia bởi người Iran bản địa là dòng chữ trên tấm bia đá Behistun của [[Darius I của Ba Tư|Darius I]], nơi Parthia được liệt kê (theo thứ tự chiều kim đồng hồ tiêu biểu của Iran) nằm trong số các Tỉnh trong vùng lân cận của [[Drangiana]]. Bản khắc lịch sử bắt đầu vào khoảng năm 520 TCN. Trung tâm của chính quyền "có thể đã nằm tại [nơi mà sau này được gọi là] Hecatompylus".<ref>{{harvnb|Cook|1985|p=248}}.</ref> Parthia cũng xuất hiện trong danh sách của Herodotus liệt kê các dân tộc chịu sự cai trị của triều đại Achaemenids;. Nhà sử học ghi lại rằng người Parthia, Chorasmians, Sogdians và Areioi như dân tộc của một tổng trấn riêng rẽ(16), mà hàng năm cống nạp cho đức vua theo ông nói chỉ có 300 talent bạc. Điều này "nếu đúng sẽ gây ra băn khoăn cho các học giả hiện đại."<ref>{{harvnb|Cook|1985|p=252}}.</ref>
Trong [[trận Gaugamela]] năm 331 TCN giữa quân đội của [[Darius III]] và [[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]], một trong những đội quân người Parthia được chỉ huy bởi Phrataphernes,
===Dưới thời Seleucid===
Sau khi Alexander mất,
Năm 316 TCN, Stasander, một chư hầu của [[Seleukos I Nikator]] và thống đốc của [[Bactria]] (và, có vẻ như, cũng của [[Aria]] và [[Margiana]]) được bổ nhiệm làm thống đốc của Parthia. Trong 60 năm tiếp theo, nhiều thành viên triều đại Seleucid sẽ được bổ nhiệm làm thống đốc của tỉnh.
Dòng 28:
[[Tập tin:AndragorasCoinHistoryofIran.jpg|nhỏ|phải|200px|Coin of Andragoras, the last Seleucid satrap of Parthia. He proclaimed independence around 250 BC.]]
Trong khi đó, "một người đàn ông được gọi là [[Arsaces I của Parthia|Arsaces]], xuất xứ từ [[Scythia]] hoặc người Bactrian, [đã] được bầu làm lãnh đạo của người Parni",<ref name="Curtis_2007_7">{{harvnb|Curtis|2007|p=7}}.</ref> một dân tộc đông-Iran từ Tajen / thung lũng sông Tajend, phía đông nam của [[biển Caspi]]an.<ref name="Lecoq_1987_151">{{harvnb|Lecoq|1987|p=151}}.</ref> Sau sự ly khai của Parthia từ [[Vương quốc Seleukos|Đế quốc Seleucid]] và mất sự hỗ trợ quân sự từ Seleukos, [[Andragoras]] gặp khó khăn trong việc duy trì biên giới của mình, và khoảng năm 238 TCN - dưới sự chỉ huy của "Arsaces và em trai Tiridates" của ông<ref name="Curtis_2007_7"/><!-- [[Tiridates I]] linkage per: --><ref name="Bivar_1983_29">{{harvnb|Bivar|1983|p=29}}.</ref> - người Parni xâm lược Parthia<ref name="Bickerman_1983_19">{{harvnb|Bickerman|1983|p=19}}.</ref>
Một thời gian ngắn sau này khi người Parni chiếm giữ phần còn lại của Parthia từ Andragoras, giết chết ông ta trong cuộc chiến. Mặc dù ban đầu cuộc viễn chinh của quân đội Seleucids dưới thời [[Seleukos II Kallinikos|Seleukos II]] đã không thành công, [[vương quốc Seleukos|đế chế Seleucid]] dưới thời Antiochus III đã tái chiếm lại lãnh thổ do triều đại Arsacid kiểm soát trong năm 209 TCN từ người thừa kế của Arsaces là Tiridates, hoặc Arsaces II. [[Arsaces II của Parthia|Arsaces II]] đã phải cầu hòa và chấp nhận địa vị chư hầu,,<ref name="Bivar_1983_29"/>
===Dưới triều đại Arsaces===
|