Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Xu hướng tính dục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Nếu dịch từ tiếng Anh sang thì Sexual Orientation có nghĩa là "Xu hướng tình dục" chứ không phải là "tính dục". "Tính dục" theo Soha tra từ thì từ này mang nghĩa: sự đòi hỏi sinh lí về quan hệ tính giao. Từ đồng nghĩa của nó là "dục tính" (http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/T%C3%ADnh_d%E1%BB%A5c). Còn theo từ điển hán việt, "tính dục" mang nghĩa là ham muốn tình dục, ham muốn nhục dục (https://hvdic.thivien.net/hv/t%C3%ADnh%20d%E1%BB%A5c). Vậy nên chính xác ở đây phải là "tình dục".
Dòng 1:
{{Thiên hướng tình dục}}
'''Xu hướng tínhtình dục''' (đôi[[tiếng Anh]]: Sexual Orientation, [[Tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]: 性取向. Đôi khi được gọi là "''Thiên hướng tình dục"'' hay "khuynh''Khuynh hướng tình dục''), chỉ sự bị hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc về mặt [[tình dục]] bởi người khác [[giới tính]] hoặc người cùng giới tính với mình hoặc cả hai một cách lâu dài.
 
Theo [[Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ]], xu hướng tínhtình dục cũng chỉ sự ý thức cá nhân và sự công nhận của [[xã hội]] về những hấp dẫn đó cũng như chỉ một cộng đồng cùng có chung sự hấp dẫn.
 
Thiên hướng tình dục thường được phân loại dựa trên giới tính của những người hấp dẫn mình do đó thường được nêu lên dưới dạng ba loại: [[dị tính luyến ái]], [[đồng tính luyến ái]] và [[lưỡng giới|song tính luyến ái]]. Tuy nhiên một vài người có thể thuộc một loại khác với ba loại trên hoặc không thuộc một loại nào cả. Những dạng xu hướng tínhtình dục thông thường nhất nằm trên một thang đo từ hoàn toàn dị tính luyến ái (chỉ bị hấp dẫn bởi người khác phái) cho đến hoàn toàn đồng tính luyến ái (chỉ bị hấp dẫn bởi người cùng phái) và bao gồm vài dạng song tính luyến ái khác (bị hấp dẫn bởi cả hai phái).
 
Hầu hết các định nghĩa về xu hướng tínhtình dục đều bao gồm một khía cạnh tâm lý là sự khao khát tình dục cá nhân hoặc sự thể hiện của cá nhân. Một vài định nghĩa bao gồm cả hai khía cạnh đó. Vài người khác chỉ đơn giản dựa trên định nghĩa hoặc sự tự nhận biết của chính mình.
 
Vài nhà nghiên cứu [[tình dục học]], [[nhân chủng học]] và [[lịch sử]] nêu ra rằng sự phân loại thành dị tính và đồng tính luyến ái là không phổ quát. Các xã hội khác nhau có thể dựa theo những tiêu chí khác quan trọng hơn giới tính để phân loại, bao gồm tuổi tác của bạn tình hoặc là vai trò chủ động hay thụ động của cá nhân hoặc vị trí trong xã hội.
 
Sự [[nhận thực giới tính|ý thức giới tính]] và sự [[thể hiện giới tính]] có liên quan mật thiết đến xu hướng tínhtình dục nhưng đây là những khái niệm khác nhau. Sự ý thức giới tính chỉ sự ý thức của chính cá nhân đó về [[giới tính sinh học]] của họ, sự thể hiện giới tính chỉ các điệu bộ, cử chỉ, cách cư xử của cá nhân đó còn xu hướng tínhtình dục thì liên quan đến sự tưởng tượng, mong mỏi, khao khát. Chẳng hạn một người đàn ông có giới tính sinh học là nam và ý thức mình là nam (ý thức giới tính là nam) nhưng có điệu bộ, cử chỉ và cách cư xử như phụ nữ (thể hiện giới tính là nữ) đồng thời cũng có thể có ham thích tình dục với phụ nữ (xu hướng tínhtình dục là dị tính luyến ái). Mỗi cá nhân có thể thể hiện hoặc [[công khai xu hướng tính dục|công khai xu hướng tình dục]] của mình ra bên ngoài hay không. Những người đồng tính luyến ái thường che giấu sự thật về họ.
 
==Xác định xu hướng tínhtình dục==
Vì mỗi người có thể định nghĩa xu hướng tínhtình dục một cách khác nhau và vì các chuẩn mực xã hội nên việc xác định xu hướng tínhtình dục là khó khăn. Để xác định có thể dựa vào sự tự nhận biết hoặc sự thể hiện ra bên ngoài hoặc sự ham thích của đối tượng cần xác định.
Ít nhất là vào cuối thế kỷ 19, ở [[châu Âu]], người ta đã suy đoán rằng, xu hướng tínhtình dục của con người có vẻ nằm trên một thang liên tục hơn là thuộc hai ba loại riêng biệt. Năm 1896, nhà nghiên cứu [[tình dục học]] 28 tuổi ở [[Berlin]], [[Magnus Hirschfeld]], công bố một cách đánh giá độ mạnh của ham thích tình dục của mỗi cá nhân bằng một thang hai chiều, mỗi chiều 10 điểm. Chiều A, [[đồng tính luyến ái]] và chiều B, [[dị tính luyến ái]].<ref>[[Magnus Hirschfeld|Hirschfeld, Magnus]], 1896. ''Sappho und Socrates, Wie erklärt sich die Liebe der Männer & und Frauen zu Personen des eigenen Geschlechts?'' (Sappho and Socrates, How Can One Explain the Love of Men and Women for Individuals of Their Own Sex?)</ref> Điểm của một người dị tính có thể là A0, B5 hoặc của một người đồng tính có thể là A5, B0. Điểm của người [[vô tính]] là A0, B0 và nếu một người nào đó ham thích tình dục cao độ với cả nam và nữ có điểm là A9, B9.
50 năm sau, nhà tình dục học [[người Mỹ]] [[Alfred Kinsey]] viết trong quyển Thể hiện tình dục ở nam giới (1948):
{{quotation|Không thể phân tách đàn ông thành hai loại riêng biệt là dị tính và đồng tính luyến ái cũng như không thể chia thế giới thành [[cừu nhà|cừu]] và [[dê]]. Thế giới tự nhiên hiếm khi được phân chia thành những loại riêng biệt…Trong mọi khía cạnh, thế giới sống này là liên tục. Dựa trên nguyên lý đó, cần thiết đề xuất một cách phân loại mới bằng cách thêm vào hai loại hoàn toàn dị tính và hoàn toàn đồng tính những loại khác mà chúng khác nhau một cách tương đối. Một người có thể nằm đâu đó trên thang đánh giá này trong một thời điểm nào đó của cuộc đời…Một thang đo 7 điểm thể hiện những xu hướng tính dục. |<ref>A.C. Kinsey, W.B. Pomeroy, C.E. Martin, ''Sexual Behavior in the Human Male,'' (pp. 639, 656). Philadelphia, PA: W.B. Saunders, 1948). ISBN 0-253-33412-8.</ref>}}
[[Thước đo Kinsey|Thang đo Kinsey]] đánh giá xu hướng tínhtình dục từ 0 (hoàn toàn dị tính luyến ái) đến 6 (hoàn toàn đồng tính luyến ái) và một loại khác X, những ai không có ham thích tình dục với cả nam hay nữ. Không giống như thang đo của Hirschfeld, thang Kinsey là thang một chiều. [[:en:Simon LeVay|Simon LeVay]] viết "điều đó cho thấy (mặc dù Kinsey không tin rằng) mỗi người có độ mạnh ham thích tình dục như nhau và được chia thành hai phần là ham thích người cùng giới và ham thích người khác giới theo một tỉ lệ phụ thuộc vào xu hướng tínhtình dục của người đó."
 
==Khả năng thay đổi của xu hướng tínhtình dục==
Năm 1985, trong quyển Lựa chọn song tính luyến ái (Bisexual Option), [[Fritz Klein]] trình bày một thang đo để kiểm tra giả thuyết của mình cho rằng xu hướng tínhtình dục là "một quá trình thay đổi và nhiều biến" vì nó thay đổi theo thời gian và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau bao gồm yếu tố liên quan và không liên quan đến tình dục. Klein xem xét các yếu tố như ham thích về mặt tình dục, sự thể hiện, tình cảm và mối quan hệ xã hội, lối sống và sự tự nhận biết. Mỗi yếu tố đó đều ảnh hưởng đến quá khứ, hiện tại và quan niệm của từng người.<ref>[[Simon LeVay|LeVay, Simon]], 1996. ''Queer Science: The Use and Abuse of Research into Homosexuality.'' Cambridge: MIT Press. ISBN 0-262-62119-3.</ref>
 
Khả năng thay đổi xu hướng tínhtình dục tùy thuộc vào từng người. Trung tâm Nghiên cứu Nghiện và Sức khỏe Tâm thần (Centre for Addiction and Mental Health) cho rằng "Ở một vài người, xu hướng tínhtình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời. Ở người khác, nó có thể thay đổi theo thời gian".<ref>[http://www.camh.net/Care_Treatment/Resources_for_Professionals/ARQ2/arq2_question_a2.html CAMH: Resources for professionals]</ref> Nghiên cứu của [[Lisa Diamond]] cho thấy xu hướng tínhtình dục của phụ nữ [[lưỡng giới|song tính luyến ái]] dễ thay đổi hơn của phụ nữ [[đồng tính luyến ái]].<ref>Diamond, Lisa [http://www.psych.utah.edu/people/faculty/diamond/Publications/Sexual%20identity,%20attractions,%20and%20behavior.pdf Sexual Identity, Attractions, and Behavior Among Young Sexual-Minority Women Over a 2-Year Period] ''Developmental Psychology (2000) Vol. 36 No.2, 241-250</ref>
 
Có những tổ chức không đồng ý với Fritz Klein. Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (American Psychological Association) khẳng định rằng "thiên hướng đồng tính luyến ái là không thể thay đổi".<ref name="answers">[http://www.apa.org/topics/sorientation.html#whatabout Answers to Your Questions About Sexual Orientation and Homosexuality], American Psychological Association. Truy cập 2008-08-21.</ref> Năm 2001, bác sĩ người Mỹ [[David Satcher]] (United States Surgeon General) công bố rằng "không có một bằng chứng khoa học nào cho thấy xu hướng tínhtình dục là có thể thay đổi được".<ref>"[http://www.surgeongeneral.gov/library/sexualhealth/call.htm#III The Surgeon General's call to Action to Promote Sexual Health and Responsible Sexual Behavior]", A Letter from the Surgeon General U.S. Department of Health and Human Services 2001-07-09. Truy cập 2007-03-29.</ref>
==Sự ham thích, thể hiện và ý thức==
Vài người phân biệt:
 
1. Ham thích người khác phái/cùng phái.
Dòng 36:
4. Tự nhận mình là dị tính, đồng tính, song tính, vv.
 
Các tổ chức y khoa chính thống cũng khẳng định rằng hành vi tình dục (sexual behaviour) là khác với xu hướng tínhtình dục".<ref>[http://www.apa.org/pi/lgbc/publications/justthefacts.html Just the Facts About Sexual Orientation & Youth: A Primer for Principals, Educators and School Personnel], [[American Psychological Association]], et al., 1999. Truy cập 2007-02-23.</ref>
==Xu hướng tínhtình dục và ý thức giới tính==
Những tác giả đầu tiên thường hiểu rằng xu hướng tínhtình dục liên quan đến giới tính của cá nhân. Chẳng hạn, người ta nghĩ rằng một người có cơ thể là nữ mà lại thích người có cơ thể là nữ thì có tính đàn ông và ngược lại. Từ giữa [[thế kỷ 19]] đến đầu [[thế kỷ 20]], hầu hết những nhà lý luận nổi bật và chính những người đồng tính cũng đồng ý như vậy. Tuy nhiên, vấn đề này được đưa ra tranh cãi và đến nửa sau của thể kỷ 20, [[nhận thực giới tính|ý thức giới tính]] (gender identity) ngày càng được xem là độc lập với xu hướng tínhtình dục. Những người có ý thức giới tính trùng với giới tính sinh học của mình (cisgender) và những người có ý thức giới tính không trùng với giới tính sinh học của mình (transgender) đều có thể có ham thích đối với nam hoặc nữ hoặc cả hai mặc dù xu hướng tínhtình dục của hai nhóm này khá khác nhau. Một người đồng tính, dị tính hoặc song tính đều có thể là người nam tính, nữ tính hoặc [[ái nam ái nữ]].<ref>[[J. Michael Bailey|Bailey, J.M.]], Zucker, K.J. (1995), ''Childhood sex-typed behavior and sexual orientation: a conceptual analysis and quantitative review.'' Developmental Psychology 31(1):43</ref>
 
==Nhân khẩu học==
Phương pháp nghiên cứu nhân khẩu học của xu hướng tínhtình dục có nhiều thử thách vì xu hướng tínhtình dục có nhiều khía cạnh khác nhau và ranh giới khác nhau. Việc xác định tỉ lệ các xu hướng tínhtình dục khác nhau trên thực tế là khó khăn và gây nhiều tranh cãi.
 
Trong Thể hiện tình dục ở nam giới (1948) và Thể hiện tình dục ở phụ nữ (1953), của Alfred Kinsey, người ta được yêu cầu tự đánh giá mình theo thang Kinsey. Khi phân tích sự thể hiện giới tính và ý thức giới tính của từng cá nhân, ông rút ra rằng thiên hướng song tính luyến ái, ham thích tình dục với cả người cùng và khác phái, chiếm đa số. Theo ông, dị tính và đồng tính luyến ái chiếm một tỉ lệ nhỏ (5-10%). Tuy nhiên, hoàn toàn song tính luyến ái (ham thích tình dục với người cùng phái và khác phái là bằng nhau) một tỉ lệ nhỏ hơn nữa.
 
Hàng 47 ⟶ 48:
 
Tỉ lệ song tính luyến ái được xác định thay đổi tùy cách định nghĩa ít nhất là khi thống kê trong cùng một vùng. Vài nghiên cứu coi một người là song tính luyến ái chỉ khi người đó ham thích tình dục với cả người cùng và khác phái một cách bằng nhau. Các nghiên cứu khác coi một người là song tính khi người đó không phải là hoàn toàn đồng tính hoặc không phải là hoàn toàn dị tính. Một tỉ lệ nhỏ là những người không ham thích tình dục với bất kỳ ai ([[vô tính]]).
==Những yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng tínhtình dục==
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pedeatrics) khẳng định rằng "Xu hướng tínhtình dục chỉ được quyết định bởi sự tổng hợp của [[kiểu gen]], [[hoocmon]] và ảnh hưởng môi trường".<ref>[http://aappolicy.aappublications.org/cgi/reprint/pediatrics;113/6/1827.pdf Sexual Orientation and Adolescents], [[American Academy of Pediatrics]] Clinical Report. Truy cập 2007-02-23.</ref> Nhiều tranh cãi tiếp tục dựa trên các yếu tố [[sinh học]] và/hoặc [[tâm lý học|tâm lý]] như [[kiểu gen]] và sự hoạt động của một số hoocmon ở [[bào thai]]. [[Sigmund Freud]] và các nhà tâm lý khác xác nhận rằng sự hình thành xu hướng tínhtình dục do nhiều nhân tố trong đó có những điều trải qua khi còn nhỏ.
===Nhân tố môi trường===
{{Chính|Yếu tố môi trường trong xu hướng tính dục}}
===Hoocmon tác động lên bào thai===
{{Chính|Hoócmôn bào thai và xu hướng tính dục}}
Giả thuyết về hoocmon cho rằng sự hoạt động của những hoocmon tác động lên sự khác biệt giới tính và cũng tác động lên xu hướng tínhtình dục, xu hướng tínhtình dục này sẽ thể hiện khi trưởng thành. Hoocmon giai đoạn bào thai có thể là một nhân tố chính cũng như kết hợp với kiểu gen và/hoặc điều kiện môi trường và [[xã hội]].<ref>G.Wilson & Q.Rahman Born Gay: The Psychobiology of Human Sex Orientation, London: Peter Owen 2005</ref>
===Thứ tự trong gia đình===
{{Chính|Số lượng anh trai và xu hướng tính dục}}
Hàng 60 ⟶ 61:
===Nhân tố kiểu gen===
{{Chính|Yếu tố sinh học trong xu hướng tính dục}}
Các nghiên cứu phát hiện rằng nhiều nhân tố sinh học liên quan tới hình thành xu hướng tínhtình dục bao gồm kiểu gen, hoocmon giai đoạn bào thai và cấu trúc não. Không có yếu tố nào là duy nhất và nghiên cứu đang tiếp tục. Những nghiên cứu trên người [[sinh đôi]] cho thấy nhân tố kiểu gen là chủ yếu nhưng cách lập luận trong những nghiên cứu đó cũng gặp khó khăn. Một nghiên cứu gần đây đã nêu lên rằng kiểu gen không phải là nhân tố chủ yếu.<ref name=Bearman>This work was published in the ''American Journal of Sociology'' (Bearman, P. S. & Bruckner, H. (2002) Opposite-sex twins and adolescent same-sex attraction. American Journal of Sociology 107, 1179–1205.) and is available only to subscribers. However, a final draft of the paper is available [http://www.iserp.columbia.edu/research/working_papers/downloads/2001_04.pdf here] - there are no significant differences on the points cited between the final draft and the published version.</ref>
===Song tính luyến ái bẩm sinh===
[[Sigmund Freud]] giới thiệu khái niệm song tính luyến ái [[bất thường bẩm sinh|bẩm sinh]] dựa trên công trình của Wilhelm Fliess, một cộng tác của ông. Theo giả thuyết này, tất cả mọi người đều sinh ra là song tính luyến ái nhưng trải qua quá trình tâm lý, bao gồm các nhân tố bên trong lẫn bên ngoài trở nên [[đơn tính luyến ái]] (monosexual, đồng tính hoặc dị tính) nhưng thiên hướng song tính vẫn còn tiềm ẩn.
===Khả năng lựa chọn===
Theo bác sĩ [[Angela Pattatucci]], một nhà sinh học lâm sàng, "Thật sai lầm khi cho rằng xu hướng tínhtình dục là do lối sống – có ai muốn mình là người thuận tay trái như một cách lựa chọn lối sống? Nhưng sự sai lầm này đã được nói trên [[thông tin đại chúng]] và ngày càng phổ biến. Khi những [[phóng viên]] dùng từ lối sống, đó là sự lười suy nghĩ. Nhiều người tôn sùng từ này vì trong nhiều trường hợp, người ta cho rằng xu hướng tínhtình dục là sự lựa chọn của mỗi người, là phù phiếm và bất bình thường, là những gì bạn làm đi ngược với thiên hướng bên trong của bạn. Tôi rất tiếc, điều này là không đúng." <ref>Burr, Chandler. ''A Separate Creation: The Search for the Biological Origins of Sexual Orientation.'' Hyperion 1997.</ref>
 
Trong vụ kiện 1993 chống lại Bổ sung Colorado 2 (Colorado Amendment 2) đã vi phạm luật chống phân biệt đối xử người đồng tính, Dean Hamer nêu lên "Vì con người không thể lựa chọn giới tính, họ không thể lựa chọn cũng như thay đổi xu hướng tínhtình dục. Con người không thể thay đổi giới tính. Xu hướng tínhtình dục là bẩm sinh và không thể thay đổi". [[Simon LeVay]] bác bỏ "…áp lực của vụ kiện đã làm cho các nhân chứng trở nên cực đoan hoặc đơn giản hóa vấn đề hơn. Lập luận của Hamer đã đi xa hơn dữ kiện ở hai điểm. Thứ nhất, nó đã bác bỏ mọi khả năng lựa chọn xu hướng tínhtình dục nếu như kiểu gen chỉ là một trong nhiều nhân tố. Có thể xây dựng một giả thuyết rằng xu hướng tínhtình dục bao gồm một "kiểu gen đồng tính" và một sự mong muốn đồng tính. Thứ hai, nó đã đánh đồng kiểu gen và tính cố định, điều này phát sinh nhiều vấn đề." <ref name="levay">LeVay, Simon (1996). ''Queer Science: The Use and Abuse of Research into Homosexuality.'' Cambridge: The MIT Press ISBN 0-262-12199-9</ref>
 
==Yếu tố xã hội==
Bởi vì vấn đề xu hướng tínhtình dục là phức tạp và đa chiều, nhiều học viện và nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong Nghiên cứu Đồng tính luyến ái (Queer studies), đã nói đây là vấn đề mang tính lịch sử và xã hội. Năm 1976, nhà sử học [[Michel Foucault]] chỉ ra rằng đồng tính luyến ái đã không tồn tại ở [[thế kỷ 18]]; sự [[kê gian]] (sodomy, tình dục giữa hai người nam) chỉ là một hành vi tình dục. Kê gian là một tội thường được bỏ qua nhưng đôi khi bị xử phạt rất nặng.
 
Vài nhà sử học và nhà nghiên cứu nói khía cạnh tình cảm liên quan đến xu hướng tínhtình dục thay đổi đáng kể theo thời gian và tùy từng [[văn hóa|nền văn hóa]]. Chẳng hạn, ở các nước nói tiếng Anh, việc hôn người cùng phái, đặc biệt là hai người đàn ông là một dấu hiệu của đồng tính trong khi đó việc này là sự thể hiện [[tình bạn]] một cách bình thường ở các nước khác. Ngoài ra, ở nhiều nền văn hóa, mặc dù đồng tính luyến ái là điều cấm kỵ, hiện nay và trong quá khứ có những lễ cưới chính thức dành cho những cặp cùng phái.<ref>Robert Brain. ''Friends and Lovers''. Granada Publishing Ltd. 1976. Chapters 3, 4.</ref>
==Một số dạng khác==
''Allosexual'' (tạm dịch: [[Hữu tính|hữu tính]]) chỉ những người có hấp dẫn tình dục. Đây có thể được coi là xu hướng tình dục trái ngược với vô tính. Những xu hướng khác như đồng tính, dị tính, song tính, toàn tính, đa tính,... đều nằm trong thuật ngữ chung là hữu tính.
Hàng 83 ⟶ 84:
''Omnisexual'': chỉ những người bị hấp dẫn với tất cả giới và giới tính, tuy nhiên, khác với Pansexual, giới và giới tính vẫn là một nhân tố quan trọng trong sự hấp dẫn của họ.
 
''Pomosexual'' là từ mới chỉ những người không xác định xu hướng tínhtình dục của mình (chẳng hạn như đồng tính hay dị tính) và không gán mình vào một loại xu hướng tínhtình dục nào. Khái niệm này khác với [[vô tính]] chỉ những người không bị hấp dẫn tình dục bởi bất kỳ ai.
 
Greysexual (tạm dịch: [[bán vô tính luyến ái]]) là xu hướng tínhtình dục chỉ những người chỉ thi thoảng mới cảm nhận được sự hấp dẫn tình dục. Ngoài ra, đây cũng có thể được coi là một phổ nằm giữa [[Vô tính|Vô Tính]] và [[Hữu Tính]]
 
''Androsexual'': chỉ những người bị hấp dẫn với tính nam và/hoặc nam giới.
Hàng 93 ⟶ 94:
''Ceterosexual'': chỉ những người bị hấp dẫn với những người không nhìn nhận bản thân là nam hay nữ (ví dụ như những người [[Phi nhị nguyên giới|phi nhị nguyên giới]], vô giới, song giới, linh hoạt giới,...)
 
''Abrosexual'': chỉ những người có xu hướng tínhtình dục linh hoạt và luân chuyển theo thời gian. Một người Abrosexual có lúc nhận dạng bản thân là người đồng tính, khi thì nhìn nhận mình là người dị tính, lúc lại thấy bản thân là người vô tính,...
 
''Aceflux'' (tạm dịch: [[Bán vô tính luyến ái|linh hoạt vô tính]]): là một dạng của Abrosexual, chỉ những người có xu hướng tínhtình dục linh hoạt và luân chuyển theo thời gian nhưng chỉ di chuyển trên phổ vô tính.
 
''Demisexual'' (tạm dịch: [[Gray asexuality#Á Tính Luyến Ái|á tính luyến ái]]): chỉ những người không có hấp dẫn tình dục với một ai trừ người họ có cảm tình và sự tin tưởng.
Hàng 109 ⟶ 110:
''Reciprosexual'': chỉ những người không có hấp dẫn tình dục với ai trừ khi họ biết người kia bị hấp dẫn với mình trước
 
''Questioning'' (tạm dịch: [[thắc mắc (xu hướng tính dục)|thắc mắc]]) chỉ người muốn xác định giới tính thật sự hoặc xu hướng tínhtình dục của mình. Những người này không chắc chắn về xu hướng tínhtình dục của mình hoặc đang khám phá cảm giác của mình.
 
''[[Bi-curious]]'' (tạm dịch: [[tò mò song tính]]) chỉ người không xác định mình là song tính hoặc đồng tính luyến ái nhưng cảm thấy tò mò về mối quan hệ hoặc hành vi tình dục với người cùng giới. Khái niệm này cũng chỉ người xác định mình là đồng tính nhưng cảm thấy quan tâm về mối quan hệ hoặc hành vi tình dục với người khác phái.
 
==Xem thêm==
*[[Công khai xu hướng tính dục|Công khai xu hướng tình dục]]
*[[Ghê sợ đồng tính luyến ái|Chứng ghê sợ đồng tính luyến ái]]
*[[Ái nam ái nữ]]