Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tsongkhapa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n bổ sung chú thích nguồn thông tin tham khảo
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 2:
'''Tsongkhapa''' (chữ Tây Tạng: བཙོང་ཁ་པ་, ''btsong kha pa'' , chữ Hán: 宗喀巴, Hán-Việt: Tông-khách-ba, [[1357]]-[[1419]]) sinh tại Amdo<ref>{{Chú thích web|url=https://diamondtour.vn/tin-tuc/thong-tin-ve-ngai-tong-khach-ba-to-khai-son-he-phai-gelupa/|tựa đề=Thông tin về ngài Tông Khách Ba – Tổ khai sơn hệ phái Gelupa|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=Diamondtour.vn|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>, Đông Bắc Tây Tạng trong một gia đình quan lại quyền thế đồng thời cũng là một gia đình Phật giáo. Sư là một vị [[Lạt-ma]] Tây Tạng, nhà cải cách lừng danh của [[Phật giáo]] tại đây. Sư sáng lập tông phái [[Cách-lỗ phái|Cách-lỗ]] (bo. ''gelugpa'' དགེ་ལུགས་པ་), với một trong những giáo phái quan trọng nhất của [[Phật giáo Tây Tạng]]. Sư là người xây dựng nhiều tháp quan trọng tại Tây Tạng như [[Drepung]] (''Triết Bang''), [[Sera]] (''Sắc Nhạ'') và [[Ganden]] (''Cách Đăng'').
 
Lúc còn nhỏ, Sư đã đi vào con đường tu học. Năm ba tuổi, Sư thụ giới Cư sĩ với Cát-mã-baĐức Karmapa thứ 4, La-bồi Đa-kiệt (bo. ''rol pa'i rdo rje'' རོལ་པའི་རྡོ་རྗེ་, [[1340]]-[[1383]]). Sư học với nhiều vị đạo sư khác nhau và nghe nhiều khai thị của hai tông phái [[Tát-ca phái|Tát-ca]] và [[Cam-đan phái|Cam-đan]]. Khả năng luận giảng xuất sắc của Tsongkhapa biểu lộ trong 18 tác phẩm và các tác phẩm này đã trở thành kinh sách giáo khoa cho các thế hệ sau. Nổi tiếng nhất trong các tác phẩm này là "Đại Luận về con đường giác ngộ" và "Luận về trình tự của mật chú". Sư cho rằng, một [[tỉ-khâu]] cần phải nghiên cứu năm ngành học và muốn thế, vị này cần biết lắng nghe các lời khai thị, biết tự mình suy xét phân biệt và biết thực hiện chúng thông qua thiền định. Trong năm ngành đó thì về triết học, Sư khuyên học [[Trung quán tông|Trung quán]] và ngành [[Nhân minh]] (sa. ''hetuvidyā'', tức logic học), về thiền định nên nghiên cứu giáo pháp của kinh ''[[Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh|Bát-nhã-ba-la-mật-đa]]'' và [[A-tì-đạt-ma]] (sa. ''abhidharma''), về một đời sống chân chính nên dựa vào [[Luật tạng]].
 
Ngoài các đóng góp trên, Sư còn hoàn tất bốn công trình lớn được kể là: tu chỉnh một bức tượng quan trọng của [[Di-lặc]], kiên trì giữ giới luật ghi trong Luật tạng, thành lập lễ nguyên đán Mon-lam và xây nhiều bảo tháp.