Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tạ Hiện”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19:
 
== Tiểu sử ==
Sau khi dẹp tan [[Quân Cờ Vàng|quân Cờ Vàng]] của [[Hoàng Sùng Anh]], năm [[1882]] Tạ Hiện được vua [[Tự Đức]] thăng chức [[Chuẩn Đô đốc|Đề đốc]]. Nhưng khi Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai vào năm [[1883]], triều đình [[Tự Đức]] phải ký hòa ước bán nước, ông rất bất bình và đã trả ấn từ quan để phản đối. SáchSử triều Nguyễn là ''Quốc triều chính biên toát yếu'' (quyển VI) có viết về ông như sau:
:"''(Vua Hiệp Hòa) đòi Đề đốc Nam Định là Tạ Hiện, Đề đốc Hải Dương là Tôn Thất Hòe về Kinh. Tạ Hiện liền theo quân Tàu làm Đề đốc, đi chiêu tập những quân nghĩa dõng, không chịu về.''
 
Về quê nhà, ông cùng với [[Phạm Huy Quang]] tập hợp nghĩa quân, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống [[Pháp]]. Cuộc khởi nghĩa của ông bắt đầu từ năm 1883 kéo dài đến năm 1887, diễn ra ở vùng Thái Bình và Nam Định. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một phần của [[Phong trảotrào Cần Vương]] theo lời hiệu triệu của vua [[Hàm Nghi]], mặc dù lời hiệu triệu được ban hành năm 1885.
 
Năm 1984, ông là một trong các chỉ huy của phía Việt Nam trong liên quân Việt–[[Nhà Thanh|Thanh]] đánh thắng quân Pháp trong [[Trận Bắc Lệ]] diễn ra tại đồn Bắc Lệ, nay là xã [[Tân Thành]], huyện [[Hữu Lũng]], tỉnh [[Lạng Sơn]], [[Việt Nam]].