Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hữu Lũng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 57:
Từ Triều Lý (1009 – 1225) sau khi rời cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long vua Lý Thái Tổ chia đất nước thành 24 lộ, lộ Lạng Giang có địa giới hành chính gần trùng với các tỉnh Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương ngày nay, quản lý gồm 03 châu là châu Lạng Giang, Nam Sách, Thượng Hồng và 05 huyện. Châu Lạng Giang gồm 04 huyện: huyện Yên Thế, Yên Ninh, Cổ Lũng (Hữu Lũng ngày nay), Bảo Lộc. Cuối thời nhà Trần và đầu thời nhà Hồ, thời kỳ này Hữu Lũng có tên gọi là Cổ Lũng nằm trong lộ Lạng Giang. Đến Thế kỷ XIV, khi nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược nước ta, Cổ Lũng nằm trong phủ Lạng Giang, lộ Bắc Giang. Thời nhà Lê, Vua Lê Thánh Tông là hoàng đế thứ năm của hoàng triều Lê nước Đại Việt trị vì đất nước từ ngày 26 tháng 6 năm 1460 – 1497, từ năm 1460 – 1469 vua Lê lấy niên hiệu là Quang Thuận, thời kỳ này lộ Bắc Giang được đổi thành thừa tuyên Bắc Giang, huyện Cổ Lũng thuộc phủ Lạng Giang, thừa tuyên Bắc Giang. Năm 1469 vua Lê Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ và đổi tên đơn vị hành chính từ thừa tuyên Bắc Giang thành trấn Kinh Bắc. Phủ Lạng Giang thuộc trấn Kinh Bắc, có 06 huyện: Phượng Nhân, Hữu Lũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng. Huyện Hữu Lũng thuộc phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc gồm 25 xã, lỵ, sở của huyện đặt ở tổng Hữu Thượng( ). Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), giảm tri huyện, Hữu Lũng do phân phủ Lạng Giang kiêm lý, lãnh 04 tổng là Vân Nham, Thuốc Sơn, Hữu Thượng, Hương Vĩ và 30 xã, thôn, trại. Huyện lỵ đặt ở tổng Hữu Thượng. Năm 1822 trấn Kinh Bắc được đổi thành trấn Bắc Ninh. Năm 1831 trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Giang, huyện Hữu Lũng thuộc phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, sau khi chiếm xong tỉnh Bắc Ninh chính quyền thực dân cắt toàn bộ đất đai của Hữu Lũng, Lục Ngạn và Bảo Lộc thành lập nên tỉnh Lục Nam vào ngày 05 tháng 11 năm 1889. Đến tháng 8 năm 1891, tỉnh Lục Nam được thay đổi bằng đạo quân quan binh Phả Lại để phù hợp với yêu cầu chiến tranh của bọn thực dân phong kiến. Ngày 10 tháng 10 năm 1895, giải tán đạo quân quan binh Phả Lại, khi đó tỉnh Bắc Giang được thành lập, phần đất Hữu Lũng lại sáp nhập với Lạng Giang trở thành huyện Kế Từ.
Ngày 11 tháng 4 năm 1900, Hữu Lũng được trả lại tên gọi xưa và nằm trong tỉnh Bắc Giang, năm 1908 đổi thành châu Hữu Lũng. Từ đó đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hữu Lũng là 01 châu thuộc tỉnh Bắc Giang, với 02 tổng là Thuốc Sơn và Vân Nham. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Hữu Lũng là 01 huyện nằm trong cơ cấu hành chính của tỉnh Bắc Giang gồm có 15 xã, gồm các xã: Chiêu Tuấn, Cù Sơn, Chi Quan, Tiên Lệ, Hòa Lạc, Thuốc Sơn, Khuôn Lâu, Nhật Lãng, Minh Lễ, Vân Nham, Thiện Kỵ, Vô Muộn, Bảo Lộng, Đằng Yên, Đằng Sơn. ĐểCuối đápnăm ứng1948 yêuhuyện cầuđã nhiệmsáp vụnhập trong15 quá trìnhthành xây09 dựng và phát triển, huyệngồm thaycác đổi vềTuấn quy môSơn, địaChi giớiTiên, hànhHòa chínhLạc, đốiCai vớiKinh, cácNhật xã.Minh, nhưVân CuốiNham, nămThiện 1948Kỵ, huyệnYên đãBình, sápYên nhập 15 xã thành 09 xã,Vượng. thángTháng 11 năm 1953 huyện tách 09 xã thành 24 xã. gồm có các xã Đồng Tân, Cai Kinh, Hòa Lạc, Yên Vượng, Yên Thịnh, Yên Sơn, Sơn Hà, Hồ Sơn, Tân Thành, Hòa Sơn, Minh Hòa, Hòa Thắng, Minh Sơn, Nhật Tiến, Minh Tiến, Đô Lương, Vân Nham, Thanh Sơn, Đồng Tiến, Tân Lập, Thiện Kỵ, Yên Bình, Hòa Bình, Quyết Thắng.
 
Trước đây, huyện Hữu Lũng thuộc tỉnh [[Bắc Giang]] nhưng từ năm [[1956]] thì nhập vào [[Lạng Sơn]] trực thuộc [[khu tự trị Việt Bắc]].