Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phiên Ngung (kinh đô)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Đây là bài về một địa danh cổ và hoàn toàn khác, cho nên infobox đó nên chèn vào bài Phiên Ngung, Quảng Châu mới chuẩn xác và hợp lý |
||
Dòng 1:
{{bài cùng tên|Phiên Ngung (định hướng)}}
'''Phiên Ngung''' (
▲'''Phiên Ngung''' ({{zh|蕃隅}}), '''Phiên Ngu''' ({{zh|蕃禺/番禺}}), '''Paungoo''' hoặc '''P'angu'''<ref>Phiên âm [[Mon-Khmer]], phục hồi bởi giáo sư Từ Quang Liệt ([[Đại học Phục Đán]]), 2012.</ref> là kinh đô của nước [[Nam Việt]] thời [[nhà Triệu]] vào thế kỷ 2-3 TCN và của nước [[Nam Hán]] vào thế kỷ 10, nay là thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]], tỉnh [[Quảng Đông]], [[Trung Quốc]].
==Lịch sử==
Hàng 33 ⟶ 8:
Phiên Ngung là danh xưng đầu tiên của thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]], được thành lập cách đây hơn 2000 năm. Năm 214 TCN, khi [[nhà Tần]] khống chế được người [[Bách Việt]] trên địa bàn đất [[Lĩnh Nam]] đã lập Phiên Ngung làm trị sở quận [[Nam Hải quận|Nam Hải]]. Cuối [[nhà Tần|thời Tần]] (tương đương với thời đại [[An Dương Vương]] nước [[Âu Lạc]]), viên quan [[nhà Tần]] là [[Triệu Đà]] cát cứ vùng [[Lĩnh Nam]] đặt tên nước là [[Nam Việt]], đóng đô tại Phiên Ngung mang tên là thành Việt. Đến thời [[Tam Quốc]], nước [[Đông Ngô]] bá chiếm vùng [[Lĩnh Nam]], kiểm soát [[Giao Châu]] (khi ấy bao gồm cả vùng [[Lưỡng Quảng]] và [[miền Bắc Việt Nam]]). [[Đông Ngô]] tu sửa thành Việt ở Phiên Ngung, dời thủ phủ của [[châu Giao]] từ huyện [[Quảng Tín (huyện)|Quảng Tín]] về Phiên Ngung.<ref>''[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]'', Tiền biên, Quyển 2, chép: "Lại còn việc: khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm Kiến An thứ 15 (210 SCN), đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Nhà Ngô lại dời lỵ sở sang Long Biên (tức Long Uyên), còn ở lỵ sở cũ (chỉ Phiên Ngung) đặt làm Quảng Châu."</ref> Năm 226, [[Đông Ngô]] chia [[Giao Châu]] ra làm hai châu: [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] gồm các quận [[Nam Hải quận|Nam Hải]], Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu (mới) gồm các quận Hợp Phố, [[Giao Chỉ]], [[Cửu Chân]], [[Nhật Nam]]<ref name=TT15>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%E5%8D%B7015 ''Tấn thư'', quyển 15: Địa lý chí hạ]</ref> và cử [[Sĩ Huy]], con của [[Sĩ Nhiếp]] làm thái thú quận [[Cửu Chân]], nhưng [[Sĩ Huy]] không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ quận [[Giao Chỉ]]. Thứ sử Giao Châu (mới) là [[Đái Lương]] và thứ sử [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] là [[Lã Đại]] cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em [[Sĩ Huy]]. Do lực lượng ly khai Giao châu đã bị dẹp, [[Đông Ngô]] lại sáp nhập [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] với Giao Châu như cũ, phong [[Lã Đại]] làm thứ sử [[Giao Châu]]. Đến năm 264, vì Lã Hưng nổi lên chiếm Giao Chỉ theo về [[Tào Ngụy]] (rồi [[Tây Tấn]] kế tục), Đông Ngô mới lại cắt mấy quận phía Bắc mà chính quyền này còn chiếm giữ, đặt thành [[Quảng Châu (địa danh cổ)|Quảng Châu]] (trị sở tại Phiên Ngung) như hồi năm 226; còn 4 quận kia vẫn thuộc Giao Châu (trị sở tại [[Long Biên (huyện)|Long Uyên]], nay thuộc huyện [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]), được nhà Tấn phong cho [[Hoắc Dặc]] làm thứ sử từ xa. Khi tướng Đông Ngô là [[Đào Hoàng]] chiếm lại được Giao châu năm 271, chính quyền này vẫn để Quảng châu và Giao châu như hồi năm 264 không nhập lại, và duy trì đến sau này.
==Xem thêm==
{{div col|colwidth=15em}}
Hàng 45 ⟶ 21:
* [[Nam Hán]]
{{div col end}}
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{sơ khai Trung Quốc}}
{{Lịch sử Việt Nam thời Triệu}}
|