Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Đã lùi lại sửa đổi 63905126 của 2001:EE0:41C1:3B23:0:0:0:1 (thảo luận)
Thẻ: Lùi sửa
Dòng 36:
Sự khác biệt về hai quân đội Quân đội nhân dân và Quân giải phóng về hình thức: Quân đội nhân dân trang phục phong phú hơn, nhưng đa số là xanh lá cây và xanh vàng, mũ cối, mũ kepi, mũ mềm rất phổ biến, ngoài ra có cả mũ sắt và một mũ khác, quân hiệu đỏ sao vàng, thường xuyên đeo phù hiệu ở ve áo, đeo cấp hiệu cấp bậc ở vai áo, đi giày vải có tính phổ biến. Quân giải phóng ban đầu mặc không thống nhất, đa phần mặc như thời kháng Pháp, có mũ vải lưới, sau đó mới có chủ trương đồng bộ hơn, nhưng không hoàn toàn. Dân quân du kích mặc áo bà ba đen, đeo khăn rằn, mũ tai bèo, dép cao su là phổ biến. Quân chủ lực và địa phương mũ tai bèo, dép cao su, áo xanh hoặc màu khác, như xanh xám - đen, có dù vải, không đeo cấp bậc, phù hiệu, hay đeo túi đựng đạn... Về sau quân ngoài Bắc vào nhiều và hậu cần tốt hơn, các đơn vị chủ lực có thêm mũ cối, đi giày, nhưng vẫn giữ mũ tai bèo và dép cao su. Trên đường Trường Sơn mới phổ biến mũ sắt (lái xe, công binh, cao xạ,...), các địa bàn khác ít thấy, mũ vải không phổ biến như ngoài Bắc, nhưng phổ biến ở đường Trường Sơn. Không sử dụng mũ kepi. Một vài lực lượng trang bị áo rằn ri, như đặc công (có đặc công bộ và đặc công nước). Quân giải phóng không đeo cấp hiệu, phù hiệu, chỉ đeo quân hiệu hay còn gọi huy hiệu nửa đỏ nửa xanh có sao vàng. Theo Hiệp định Paris, theo lý giải của hai phía cách mạng, thì miền Nam Việt Nam có hai quân đội tức Quân giải phóng và quân VNCH, chứ không tồn tại Quân đội nhân dân. Đây là 1 thắng lợi của bên phía cách mạng, vì trước đó đối phương luốn khẳng định có 3 quân đội Việt Nam, và quân ngoài Bắc vào là Quân đội nhân dân do miền Bắc chỉ huy, với quy định hiệp định thì đội quân này chính thức được đối phương thừa nhận là quân giải phóng và không phải rút về phía bắc, mặt khác cũng là thừa nhận tính hợp pháp của Quân giải phóng. Tuy nhiên hiệp định Paris quy định hai bên miền Nam giải quyết vấn đề các lực lượng quân đội Việt Nam ở miền Nam, tức giải quyết dứt điểm vấn đề 3 quân đội hay 2 quân đội (trước đó phía cách mạng đề nghị các lực lượng quân đội Việt Nam trên cả Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết). Theo quy định này thì hội nghị hai bên miền Nam phải giải quyết, và theo hướng phía VNCH đề nghị thì toàn bộ quân miền Bắc vào phải chịu sự quản lý toàn bộ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trước khi thống nhất với quân VNCH trong một chính thể mới. Và để có sự phân biệt, quân ngoài Bắc vào mặc xanh lá cây, quân giải phóng tại chỗ mặc áo xanh xám. (Tại Trại David, phái đoàn quân sự CHMNVN mặc áo màu xanh xám này). Sự phân biệt này không phải là theo lý lịch từng quân nhân mà theo nguồn gốc đơn vị và cơ chế chỉ huy quân sự. Ông Trần Văn Trà tư lệnh Quân giải phóng năm 1973 thừa nhận mình là Trung tướng của quân đội nhân dân trước khi vào nam làm tư lệnh Quân giải phóng. Chứng tỏ bên cách mạng thừa nhận có sự công khai chi viện cả tướng lĩnh lẫn binh sĩ cho Quân giải phóng. Tuy nhiên năm 1973- 74 về bí mật hay công khai, Bộ Quốc phòng VNDCCH dựa theo chủ trương của Đảng, quyết định thành lập các quân đoàn, và về sau sáp nhập cả nhiều đơn vị quân giải phóng hình thành tại chỗ trong Nam.
 
Sau 4/1975, ngày 7 tháng 5, Ban Bí thư đề nghị tất cả các nơi, kể cả Sài Gòn đều tổ chức kỷ niệm gọi tên quân đội là Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam (tên gọi khác của Quân đội nhân dân) không dùng chữ quân giải phóng. cũng ngày đó ủy ban Quân quản sài Gòn ra mắt, ông Trần Văn Trà và nhiều tướng lĩnh vẫn mặc bộ đồ Quân giải phóng như hồi 1973, dù được giới thiệu là tướng Quân đội nhân dân. Nhưng lễ mít tinh thì có đầy đủ cả hải lục không quân, quân đội có đeo phù hiệu. Ngày 15/5 tổ chức duyệt binh tại Sài Gòn có đại diện Chính phủ, mặt trận và Đảng ngoài Bắc, thì tướng Trà và nhiều tướng khác mặc trang phục Quân đội nhân dân, phù hiệu cấp bậc quân đội nhân dân, ông Trần Nam Trung mặc dân sự (ông Văn Tiến Dũng mặc trang phục Quân đội nhân dân). Lễ đó, công khai băng rôn Đảng Lao động Việt Nam. Tuy nhiên các diễn văn chào mừng vẫn nói là Đảng cách mạng tiên phong (chung chung), khi nhắc quân đội thì gọi là Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam (hay "các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng"), chứ không gọi là Các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Sử dụng cả quân kỳ quyết thắng của Quân đội nhân dân lẫn Quân giải phóng, sử dụng cả hai lá cờ nam bắc, cử cả bài Giải phóng miền Nam lẫn Quốc ca VNDCCH. Về lực lượng tham gia, đầy đủ quân binh chủng như ngoài Bắc, có cả dân quân du kích, tự vệ thành phố (áo trắng mũ lưỡi trai). Quân đội ve áo đeo phù hiệu đỏ, và phù hiệu xanh. Mũ thì quân hiệu vẫn là nửa đỏ nửa xanh. Tay đeo băng nửa đỏ nửa xanh hoặc đỏ. Không có quân hàm.Ngoài MiềnNgoài Bắc cùng ngày mít tinh khẳng định vai trò Đảng Lao động và quân đội nhân dân với" cách mạng"Nam Việtmiền Namnam. Như vậy ngay sau 30 tháng 4 thì bên cách mạng đã chính thức coi Quân giải phóng là một phần của Quân đội nhân dân (cả về pháp lý lẫn thực tế). Ngày 2 tháng 9 năm 1975 miền Nam tổ chức mít tinh nhiều nơi quân đội ăn mặc,... vẫn như lễ 15/5. Tuy nhiên về pháp lý thì phải đến sau khi thống nhất nhà nước, thì danh xưng Quân giải phóng mới chấm dứt trên các văn bản nhà nước. Về lực lượng an ninh vũ trang, sau 4/1975 tăng cường công an ngoài Bắc vào, và dần ăn mặc như công an ngoài Bắc nhưng danh xưng an ninh vũ trang miền Nam cũng sau khi hợp nhất nhà nước mới thôi không sử dụng.
 
Về phía đối phương, quan niệm Quân giải phóng Miền Nam là lực lượng hình thành tại chỗ (bao gồm cả lực lượng ngoài Bắc độn - bổ sung người vào các đơn vị lực lượng đó kể cả quân địa phương, du kích) và họ cho là do Mặt trận, T.Ư. Cục chỉ đạo. Các lực lượng hình thành ngoài Bắc di chuyển vào (bao gồm cả từ Nam tập kết ra Bắc trong các thời kỳ khác nhau rồi quay vào), họ đều gọi thuộc Quân đội nhân dân và họ cho là chịu chỉ huy từ ngoài Bắc và các cán bộ cử vào Nam. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này là do sự bí mật của bên phía cách mạng, mà họ không nắm rõ đặc biệt là sự chỉ đạo bí mật từ ngoài Bắc đối với hệ thống Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và quân đội trong nam. Các tin tức tình báo, trinh sát, do thám mà họ thu thập được và đối phương cung cấp cho họ không đủ bằng chứng để họ xác định chính xác hệ thống chỉ huy của quân đội đối phương. Mục đích chính phân chia lực lượng đối phương như vậy, không phải dựa trên xuất xứ vùng miền cá thể hay nhằm chia rẽ đối phương, mà để yêu cầu quân ngoài Bắc vào phải rút ra khỏi miền Nam. họ căn cứ Hiệp định Geneva, cho là sự xâm nhập quân miền Bắc là vi phạm hiệp định và phải rút về phía Bắc. Với quân tại chỗ, chủ trương giải tán hay sáp nhập vào quân đội Sài gòn. chính sách chiêu hồi áp dụng cho cả hai. Bên cách mạng lý giải sự xuất hiện quân miền Bắc là giải thích theo nguồn gốc của cuộc chiến tranh, Việt Nam đã độc lập trước đó và hiệp định cũng phải công nhận là có 1 nước VN, và sự có mặt quân ngoài Bắc chỉ là chi viện giúp đỡ. Hiệp định Paris giải quyết vấn đề này theo hướng coi quân ngoài Bắc vào sẽ là quân giải phóng. hồ sơ lý lịch quân nhân của quân ngoài Bắc vào thì nhiều đơn vị vẫn giữ tên đơn vị và truyền thống như cũ, vẫn giữ quân hàm ngoài bắc, tuy nhiên họ sinh hoạt chấp hành theo chính sách của mặt trận, khen thưởng hay kỷ luật theo chính sách mặt trận, sinh hoạt đảng theo đảng nhân dân cách mạng, hồ sơ gọi quân giải phóng nhưng quê quán ngoài bắc giữ như cũnếu hi sinh báo về Bắc thì vẫn gọi là quân đội nhân dân nhưng không nói rõ nơi hy sinh (trường hợp vào nam nhưng rút ngay ra bắc thì không phải sửa lý lịch). Tuy nhiên cuối cuộc chiến nhiều đơn vị hành quân gấp vào nam như quân đoàn 1, một số đơn vị quân đoàn 2,... không quân (phi đội quyết thắng...), hay hải quân (làm hậu cần chuyển quân, đánh Trường Sa...) thì vẫn giữ cấp hiệu phù hiệu của quân đội nhân dân, thậm trí quân hiệu trên mũ là nền đỏ sao vàng chứ không phải đổi quân hiệu trên mũ nền nửa đỏ nửa xanh. Đoàn 559 được xem quân miền Bắc nhưng nếu ở địa bàn miền nam thì vẫn cắm cờ giải phóng.