Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mariah Carey (album)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
| Released = {{Start date|1990|6|12|mf=y}}<ref>{{chú thích web |url=https://www.iheartradio.ca/news/what-happened-june-12th-in-pop-music-history-1.12660852 |title=What Happened June 12th in Pop Music Industry |date=June 12, 2020 |last=Kennedy |first=John R. |accessdate=24 August 2020 |website=iHeartRadio |archiveurl=https://web.archive.org/web/20200824102345/https://www.iheartradio.ca/news/what-happened-june-12th-in-pop-music-history-1.12660852 |archivedate=24 August 2020}}</ref>
| Recorded = 1989–1990
| Genre = {{hlist|[[Nhạc pop|Pop]]|[[R&B đương đại|R&B]]<ref name="complex">{{chú thích tạp chí|url=http://www.complex.com/music/2014/07/best-r-and-b-albums-of-the-90s/mariah-carey|title=50. Mariah Carey - Mariah Carey: 50 Best R&B albums of the '90s|magazine=[[Complex (tạp chí)|Complex]]|access-dateaccessdate=November 2, 2017|quote=danceable pop with gospel–inflected vocals}}</ref>}}
| Length = {{Duration|m=46|s=44}}
| Label = [[Columbia Records|Columbia]]
Dòng 32:
'''''Mariah Carey''''' là [[album phòng thu]] đầu tay mang chính tên của nghệ sĩ thu âm người Mỹ [[Mariah Carey]], phát hành ngày 12 tháng 6 năm 1990 bởi [[Columbia Records]]. Âm nhạc của nó là sự kết hợp giữa một loạt các thể loại đương đại, với sự pha trộn của những bản nhạc [[Dance-pop|mang tiết tấu sôi động]] và [[Tình khúc|ballad chậm]]. Ban đầu, Carey đã viết bốn bài hát với [[Ben Margulies]], nhưng chỉ được hoàn tất dưới dạng bản thu nháp. Ngay sau khi nữ ca sĩ ký hợp đồng thu âm với Columbia, tất cả đều được hoàn thiện và thu âm lại một số phần, trước khi đưa vào danh sách cuối cùng của album. Ngoài Margulies, Carey đã làm việc với một loạt các nhà soạn nhạc và nhà sản xuất chuyên nghiệp, dưới sự chỉ đạo từ giám đốc điều hành của Columbia, [[Tommy Mottola]]. ''Mariah Carey'' có sự tham gia sản xuất và viết lời của những nhà sản xuất thu âm hàng đầu vào thời điểm đó, như [[Rhett Lawrence]], [[Ric Wake]] và [[Narada Michael Walden]]. Cùng với Carey, họ đã đóng góp xây dựng album và tái cấu trúc lại những bản thu nháp ban đầu của cô.
 
Sau khi phát hành, ''Mariah Carey'' nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao chất giọng và kỹ thuật thanh nhạc của Carey, mặc dù vẫn có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh quá trình sáng tác. Ngoài ra, nó còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, nổi bật nhất là sáunăm đề cử [[giải Grammy]] tại [[Giải Grammy lần thứ 33|lễ trao giải thường niên lần thứ 33]], bao gồm [[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]] và chiến thắng hai giải cho [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]] và [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất]] với đĩa đơn đầu tiên từ album "[[Vision of Love]]". ''Mariah Carey'' cũng tiếp nhận những thành công lớn về mặt thương mại, đứng đầu bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] trong 11 tuần liên tiếp, và được chứng nhận 9chín đĩa Bạch kim bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]] (RIAA), công nhận chín triệu bản đã được tiêu thụ tại đây. Trên thị trường quốc tế, album đạt vị trí số một ở Canada và lọt vào top 10 ở Hà Lan, Úc, New Zealand, Na Uy, Thụy Điển và Vương quốc Anh. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 15 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="wwsales">{{chú thích báo|url=https://www.rollingstone.com/music/lists/musics-30-fiercest-feuds-beefs-taylor-kanye-slash-axl-w498640/mariah-carey-vs-whitney-houston-w498794|title=Music's 30 Fiercest Feuds and Beefs|work=[[Rolling Stone]]|first=Jordan|last=Runtagh|date=September 15, 2017|accessdate=October 10, 2017}}</ref>
 
Năm đĩa đơn đã được phát hành từ ''Mariah Carey'', bốn trong số đó đã vươn lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]]. Đĩa đơn đầu tiên, "Vision of Love" đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada, New Zealand và Hoa Kỳ, được giới chuyên môn đánh giá cao và nhìn nhận như là một trong những đĩa đơn đầu tay thành công nhất của một nữ nghệ sĩ. Ba đĩa đơn tiếp theo "[[Love Takes Time]]", "[[Someday (bài hát của Mariah Carey)|Someday]]" và "[[I Don't Wanna Cry]]" cũng được đón nhận và lần lượt đạt vị trí số một ở Hoa Kỳ, giúp Carey trở thành nghệ sĩ hát đơn đầu tiên trong lịch sử (thứ hai sau [[The Jackson 5]], nếu tính tất cả) sở hữu bốn đĩa đơn đầu tay đều đứng đầu bảng xếp hạng tại đây. Đĩa đơn cuối cùng từ album, "[[There's Got to Be a Way]]" chỉ được phát hành giới hạn ở Vương quốc Anh. Kể từ khi phát hành, ''Mariah Carey'' đã được ca ngợi như là một tác phẩm kinh điển của dòng nhạc pop và R&B, đồng thời giúp Carey ghi dấu ấn với tư cách là một trong những giọng ca hàng đầu thuộc thế hệ của cô.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/review/album-review/6597999/mariah-carey-debut-anniversary-track-by-track|title=Mariah Carey's Self-Titled Debut at 25: Classic Track-by-Track Review|website=Billboard|access-dateaccessdate=2019-12-22}}</ref>
 
==Tổng quan==
Dòng 46:
Sau một tuần tìm kiếm nữ ca sĩ thông qua quản lý của Starr, Mottola đã liên lạc thành công với Carey và đưa cô đến Columbia Records.<ref name="nick4"/> Sau buổi gặp đầu tiên với Carey và mẹ của cô, Patricia, Mottola nói, "Khi tôi nghe và nhìn thấy Mariah, không có gì khiến tôi nghi ngờ rằng cô ấy đã được định sẵn để trở thành một ngôi sao siêu hạng." Sau một vài cuộc họp ngắn, Carey ký kết hợp đồng với Columbia vào tháng 12 năm 1988.<ref name="nick4"/>
 
Mottola lúc bấy giờ đang đảm nhận vị trí cao nhất tại [[Sony Music Entertainment|Sony]], hãng đĩa mẹ của Columbia, và bắt đầu đưa công ty trải qua nhiều sự thay đổi.<ref name="nick4"/> Một điều ông cảm thấy rất quan trọng đối với thành công của hãng là việc đã phát hiện ra một giọng ca nữ trẻ và rất tài năng, để cạnh tranh với [[Whitney Houston]] từ [[Arista Records]], hoặc một ngôi sao nhạc pop sánh ngang với [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]], người đãđang ký hợp đồng với [[Sire Records]] vào thời điểm đó.<ref name="nick4"/> Ông cảm thấy rằng Carey có những tố chất nổi bật của cả hai. Sự tin tưởng của Mottola đối với Carey đã khiến ông quyết định mời một loạt các nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài năng và nổi tiếng để phát triển những bản thu nháp của Carey, cũng như tạo ra nhiều chất liệu mới, bao gồm Ric Wake, Narada Michael Walden và Rhett Lawrence.<ref name="nick4"/>
 
==Quá trình ghi âm và sáng tác==
{{Quote box|width=31%|align=left|style=padding:8px|quote="Khi chúng tôi gặp nhau, cô ấy 17 tuổi và tôi 24 tuổi. Chúng tôi đã làm việc cùng nhau trong khoảng thời gian ba năm để phát triển hầu hết các bài hát trong album đầu tiên. Cô ấy có khả năng nghe thấy mọi thứ trong đầu và dựa vào đó để bắt đầu phát triển các bài hát. Thường thì tôi sẽ ngồi xuống và bắt đầu chơi một thứ gì đó, và từ cảm giác của một hợp âm, cô ấy sẽ bắt đầu hát các dòng giai điệu và nghĩ ra khái niệm [cho bài hát]."|source=—Ben Margulies, về quá trình hợp tác của ông với Carey<ref>{{chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/1991/09/15/arts/pop-music-the-pop-gospel-according-to-mariah-carey.html?src=pm&pagewanted=2|title=POP MUSIC; The Pop-Gospel According To Mariah Carey|work=[[The New York Times]]|date=ngày 15 tháng 9 năm 1991|accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2020}}</ref>
}}
Carey và Ben Margulies bắt đầu viết nhạc trước khi Carey ký kết hợp đồng, và đã sáng tác hơn mười bốn bài hát; bảy trong số đó đãsẽ xuất hiện trong ''Mariah Carey''.<ref name="nick"/> Ban đầu, Carey và Margulies dự định sản xuất toàn bộ album, một ý tưởng đã bị hãng đĩa của cô từ chối.<ref name="nick"/> Trong album, Carey đã làm việc với nhiều nhà sản xuất và viết lời, bao gồm [[Ben Margulies]], [[Rhett Lawrence]], [[Narada Michael Walden]], [[Ric Wake]] và [[Walter Afanasieff]]; trong đó người cuối cùng sẽ tiếp tục cộng tác lâu dài với Carey ở những dự án trong tương lai.<ref name="nick"/> Khi quá trình sản xuất album bắt đầu, Carey đã làm việc với Walden ở New York, nơi họ sản xuất "[[I Don't Wanna Cry]]". Mặc dù mô tả Carey là "rất nhút nhát," ông cũng lưu ý đến thái độ làm việc chuyên nghiệp của cô nếu so sánh với những người cùng tuổi.<ref name="nick6">{{harvnb|Nickson|1998|pp=28}}</ref> Ngoài ra, Carey đã viết "[[There's Got to Be a Way]]" trong phiên làm việc đầu tiên của cô với Wake.<ref name="nick7">{{harvnb|Nickson|1998|pp=29}}</ref> Trong thời gian này họ đã viết nên bốn bài hát, nhưng chỉ sản xuất hai trong số đó cho ''Mariah Carey''. Sau khi bay đến New York và làm việc với Carey, Walden đã rất ngạc nhiên bởi giọng hát của cô,<ref name="nick7"/> và họ đãcòn hợp tác để chuyển thể nhiều bài hát từ những bản thu nháp trở nên thương mại hơn, vốn diễn ra tại Tarpan Studios ở San Rafael, California.<ref name="nick8">{{harvnb|Nickson|1998|pp=30}}</ref> Đối với phiên làm việc với Lawrence, Carey đã đến New York một lần nữa. Trong phòng thu, cô đã giới thiệu cho ông bản thu nháp của "[[Vision of Love]]" mà cô viết cùng Margulies nhiều năm trước. Lawrence nhìn thấy "tiềm năng" trong bài hát, nhưng ông không nghĩ nhiều về nó trong khoảng thời gian đầu.<ref name="nick8"/> Ông mô tả âm thanh của bài hát có "kiểu hơi hướng của thập niên 1950".<ref name="nick8"/> Theo Lawrence, Carey cần một âm thanh đương đại hơn, vì vậy họ đã gặp nhau trong phòng thu cùng với Margulies và nhà sản xuất Chris Toland. Họ thêm vào một số [[Biên khúc|cải biên]] mới vào [[chùm hợp âm]] ban đầu, trong khi Carey thay đổi giai điệu và [[điệu tính]] của bài hát. Sau đó, Margulies thêm vài nốt vào bản sắp xếp, bao gồm các nốt [[guitar]] và [[trống trầm]].
{{Quote box|width=31%|align=right|style=padding:8px|quote="Khi tôi đang hát với âm vực cao... vấn đề xảy ra là khi kết thúc chúng, tôi đã phát ra một số âm thanh ngẫu hứng. Khi tôi thực hiện nó, giọng tôi bị vỡ và vô tình biến thành dòng hòa âm. Nếu bạn chú ý, nó đã bị vỡ. Tôi đã nói rằng, 'Hãy loại bỏ điều đó,' nhưng mọi người nóiđáp rằnglại 'Không, chúng tôi sẽ giữ lại nó'."|source=—Carey, nói về những nốt cao mà cô đã hát trong lúc thử giọng của mình ở phòng thu<ref name="nick10"/>
}}
Khi Carey làm việc với Walden trong "I Don't Wanna Cry", họ cũng thực hiện một số bài hát khác.<ref name="nick8"/> Cùng nhau, họ quyết định "giảm nhịp độ" và tạo ra một "dạng ballad ướt át", mà theo ông, lấy cảm hứng trực tiếp từ thể loại phúc âm.<ref name="nick8"/> Sau khi hoàn thành quá trình cộng tác, Lawrence ghi nhận Carey là một người cầu toàn, theo đó ông tiết lộ rằng sau khi đã hoàn thiện nó, nữ ca sĩ trở lại phòng thu vào tuần sau, để sửa lại "một câu hát" khiến cô cảm thấy không thoải mái.<ref name="nick8"/> Là một trong bốn bản nhạc gốc mà nữ ca sĩ giới thiệu cho Mottola, "[[Someday (bài hát của Mariah Carey)|Someday]]" nhanh chóng trở thành bài hát yêu thích của Wake, "Tôi đã yêu thích bài hát đó ngay từ những ngày đầu...Sau đó, một ngày nọ, Mariah gọi cho tôi và nói rằng 'Tôi rất sẵn lòng để anh thực hiện một vài thứ mà anh muốn cho nó.' Thật tuyệt vời, tôi rất vui vì cô ấy đã gọi điện cho tôi."<ref name="nick9">{{harvnb|Nickson|1998|pp=31}}</ref> Trong quá trình ghi âm, Carey tiết lộ về hoàn cảnh ra đời của "Someday". Cô đã thực hiện bản thu nháp với Margulies trong phòng thu của ông.<ref name="nick9"/> Khi Margulies bắt đầu chơi nhiều nốt trên bàn phím điện, Carey hướng dẫn ông thay đổi hợp âm, đồng thời phát triển phần điệp khúc, lời bài hát và giai điệu.<ref name="nick9"/> Trong "All in Your Mind", Carey có một màn thể hiện giọng hát tuyệt vời, hát kỹ thuật [[staccatos]] lên đến nốt F7.<ref>{{chú thích web|url=http://www.divalegacy.com/php/main_pages.php?CategoryID=3&AuthorID=3&ID=18|title=The Acuto Sfogato|accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2020}}</ref> Theo nữ ca sĩ, giọng hát của cô "bị vỡ" khi đang thực hiện những nốt ngẫu nhiên đó,<ref name="nick10">{{harvnb|Nickson|1998|pp=32}}</ref> và mặc dù cô nghĩ rằng nên loại bỏ nó khỏi bản thu âm của bài hát, Wake và Walden đã rất ấn tượng bởi cách hát trên, và cho rằng nó sẽ hoàn toàn phù hợp.<ref name="nick10"/>
Dòng 58:
''Mariah Carey'' đang trong quá trình hoàn thiện những công đoạn cuối cùng khi Carey viết "[[Love Takes Time]]" với Margulies. Margulies tiết lộ, "Đó là một thành quả tuyệt vời mà tôi có được trong những phút giây ngẫu hứng, và sau đó chúng tôi bắt đầu làm việc với nó. Bài hát nằm trong cuốn băng ghi lại quá trình làm việc của chúng tôi... và cả hai đã thu âm bản thu nháp rất nhanh. Nó đơn giản là một bản thu với giọng hát trên nền piano - Tôi chơi piano trực tiếp, và cô ấy hát nó." Carey khi đó đang tham gia một chuyến lưu diễn nhỏ ở mười tiểu bang, trình diễn theo phong cách tối giản với một nghệ sĩ dương cầm và ba ca sĩ hát nền. Khi ở trên máy bay của công ty, cô đã phát bản thu nháp của "Love Takes Time" cho chủ tịch hãng đĩa Columbia [[Don Ienner]]. Margulies nói: "Tất cả những người quan trọng đều có mặt trên chuyến bay đó. Tommy Mottola, Ienner, và [[Bobby Colomby]]." Carey được tư vấn rằng bài hát là một "bước ngoặt sự nghiệp" và phải nằm trong album đầu tiên. Nữ ca sĩ phản đối - album của cô đã ở giai đoạn cuối cùng, và Carey dự định phát hành nó cho bản thu âm tiếp theo.
 
Bản thu nháp được gửi đến Afanasieff. Khi Carey bay về phía Tây để hợp tác với Narada Michael Walden trong một số bài hát cho album đầu tay của cô, Tommy Mottola và Don Ienner đã rất ấn tượng với những tác phẩm của Afanasieff và giao cho ông vị trí nhân viên điều hành sản xuất của hãng. "Tôi đoán rằng liệu ông ấy có lựa chọn đúng hay không, (Tommy) đã gọi cho tôi vào một ngày nọ," Afanasieff nhớ lại. "Ông ấy nói, 'Chúng tôi đã hoàn thành album này của Mariah Carey, nhưng có một bài hát mà cô ấy đã viết với Ben Margulies và đó là một hiện tượng, và tôi muốn thử mọi cách để đưa nó vào album." Tôi đáp lại, 'Vậy ông muốn tôi làm gì?' và ông ấy trả lời, 'Cậu chỉ có vài ngày, nhưng liệu cậu có sẵn sàng để hoàn thiện nó?' Tôi không thể tin mình lại được trao cơ hội đó. Tôi chưa bao giờ tự mình sản xuất bất cứ thứ gì cho đến tận thời điểm đó."
 
Theo Afanasieff, bản thu nháp đã rất gần với những gì Mottola mong muốn. "Chúng tôi cắt bài hát và âm nhạc cũng như một vài tiểu tiết khác trong khoảng một ngày - với lý do duy nhất là bởi thời hạn này. Nó sẽ thành công hoặc chúng tôi sẽ bỏ lỡ toàn bộ mọi thứ. Chúng tôi có được cuốn băng và ghi lại mọi thứ, trước khi bay đến New York để sản xuất phần giọng hát của cô ấy. Cô ấy đã thực hiện tất cả những đoạn hát nền, và cố gắng hát suốt đêm... Chúng tôi trở lại phòng thu vào chiều hôm đó, và phải sửa một câu hát rất nhanh, tiếp đó (kỹ sư) Dana (Jon Chapelle) và tôi trở lại máy bay với cuốn băng, bước vào phòng thu ở Sausalito và phối khí nó. Vì vậy, đó là một quá trình kéo dài ba ngày: một ngày rưỡi cho âm nhạc, khoảnggần một ngày cho giọng hát và một ngày cho việc hòa âm."
 
Afanasieff đã tiếp nhận ý kiến từ các giám đốc điều hành của Columbia ngay khi họ nhận được bản phối. Họ muốn giọng hát của Carey lớn hơn một chút, vì vậy bản phối lại nhanh chóng được hoàn thành. Nhà sản xuất hỏi rằng liệu bài hát có thể được ra mắt với album đầu tay không, và nhận được câu trả lời: "Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức." Trên những ấn phẩm đầu tiên của album, "Love Takes Time" không được liệt kê trong danh sách bài hát in trên mặt đĩa, mặc dù nó vẫn xuất hiện trong băng cassette hoặc CD. "(Trên) một số bản sao gốc đầu tiên của album, họ không có đủ thời gian để in tên bài hát," Margulies cười. "Và bài hát ở đó, nhưng nó không được giới thiệu rằng nó ở đó. Đó thực sự là một bài hát đủ mạnh để ngăn cản việc in ấn... Tôi không biết liệu họ có phải vứt bỏ vài trăm bản lỗi hay không."<ref>{{chú thích web|url=http://www.mariahdaily.com/infozone/storybehindno1s.shtml#ltt|dead-urldeadurl=yes|archiveurl=https://web.archive.org/web/20080622140004/http://www.mariahdaily.com/infozone/storybehindno1s.shtml|title="Hero" inside story|archivedate=ngày 22 tháng 6 năm 2008|accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2020}}</ref>
 
==Quảng bá==
Bên cạnh chiến dịch quảng bá và tiếp thị lớn do [[Sony Music Entertainment|Sony Music]] thực hiện, Carey còn trình diễn trên một số chương trình truyền hình và lễ trao giải, ở Hoa Kỳ và khắp châu Âu. Lần đầu tiên Carey xuất hiện trên truyền hình là tại [[1990 NBA Playoffs]] nơi cô hát "[[America the Beautiful]]".<ref name="nick11">{{harvnb|Nickson|1998|pp=35–38}}</ref> Ngay sau đó, cô trình diễn liên tục "Vision of Love" trên cả ''[[The Arsenio Hall Show]]'' và ''[[The Tonight Show]]''.<ref name="nick11"/> Trong tháng 9 năm 1990, Carey xuất hiện trên ''[[Good Morning America]]'', nơi cô biểu diễn phiên bản a cappella của "Vision of Love", cùng với Billy T. Scott Ensemble.<ref name="nick11"/> "Vision of Love" còn được thể hiện trên nhiều chương trình truyền hình khác của Mỹ như [[Giải Grammy lần thứ 33|lễ trao giải Grammy năm 1991]] và ''[[The Oprah Winfrey Show]]'', cũng như các chương trình châu Âu như [[Countdown (chương trình truyền hình Hà Lan)|''The Veronica Countdown'']] (Hà Lan) và ''[[Wogan]]'' (Vương quốc Anh). Carey đã biểu diễn "Vision of Love" trong hầu hết các chuyến lưu diễn của cô, cho đến [[Angels Advocate Tour]] vào năm 2010, nơi bài hát đã không xuất hiện trong danh sách trình diễn.
 
Quá trình quảng bá cho ''Mariah Carey'' tiếp tục với các đĩa đơn tiếp theo của Carey. "Love Takes Time" đã được trình diễn trên ''The Arsenio Hall Show'' cũng như buổi biểu diễn truyền hình của Carey tại The Tattoo Club.<ref name="nick11"/> Đĩa đơn thứ ba của album, "Someday", được trình diễn tại [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 1991]], giúp nó đạt vị trí quán quân ở Hoa Kỳ. Đĩa đơn thứ tư "I Don't Wanna Cry" tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 mà không có bất kỳ hình thức quảng bá nào, bởi nữ ca sĩ đã không biểu diễn nó cho đến [[Music Box Tour]] vào năm 1993.<ref name="nick11"/> Khi kế hoạch quảng bá cho ''Mariah Carey'' kết thúc, Sony phát hành đĩa đơn thứ năm "There Got to Be a Way", ở Vương quốc Anh. Hầu hết các đĩa đơn từ album đều được trình diễn trực tiếp trong suốt chuyến lưu diễn ngắn Music Box Tour của Carey, và cả "Vision of Love" lẫn "I Don't Wanna Cry" cũng được biểu diễn trong chuyến lưu diễn [[Daydream World Tour]] ở châu Á và châu Âu của nữ ca sĩ.<ref name="nick11"/>
 
===Đĩa đơn===
"[[Vision of Love]]" là đĩa đơn đầu tiên được phát hành từ ''Mariah Carey'' và trở thành một trong những bài hát nổi tiếng và được giới phê bình khen ngợi nhiều nhất trong sự nghiệp của Carey.<ref name="nick"/> Ngoài ra, nó còn được ghi nhận trong việc phổ biến kỹ thuật hát [[melisma]] trong thập niên 1990 và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ trong tương lai. "Vision of Love" gặt hái đề cử cho ba [[giải Grammy]] vào năm 1991: [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất]] (mà nó giành chiến thắng), [[Giải Grammy cho Thu âm của năm|Thu âm của năm]] và [[Giải Grammy cho Bài hát của năm|Bài hát của năm]].<ref name=awardz>{{chú thích web|url=http://mariahcarey.com/news/awards.php |title=Mariah Carey Career Achievement Awards|dead-urldeadurl=yes|archiveurl=https://web.archive.org/web/20100916080043/http://mariahcarey.com/news/awards.php |archivedate=September 16, 2010 |publisher=Mariahcarey.com |accessdate=September 29, 2010 }}</ref> Bài hát cũng nhận được [[Giải Soul Train Music cho Đĩa đơn R&B/Soul xuất sắc nhất - Nữ|giải Soul Train Music cho Đĩa đơn R&B/Soul xuất sắc nhất, Nữ]] và giải Nhạc sĩ tại giải thưởng [[BMI]] Pop.<ref name=awardz/> Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' [[Billboard Hot 100|Hot 100]] trong tuần ngày 2 tháng 8 năm 1990, và trụ vững trong bốn tuần liên tiếp.<ref name="bronson">{{harvnb|Bronson|2003|p=762}}</ref> "Vision of Love" cũng đứng đầu bảng xếp hạng đĩa đơn ở Canada và New Zealand, đồng thời xuất hiện trong top 10 ở Úc, Ireland, Hà Lan và Vương quốc Anh. Ngoài thành công về mặt thương mại, bài hát còn được các nhà phê bình âm nhạc ca ngợi. Trong một đánh giá hồi tưởng về album vào năm 2005, ''[[Entertainment Weekly]]'' đã gọi bài hát là "nguồn cảm hứng" và khen ngợi việc Carey sử dụng [[quãng sáo]] trong bài hát.<ref>{{chú thích tạp chí|last=Slezak|first=Michael|title=Gem Carey|url=https://www.ew.com/ew/article/0,,1048283,00.html|magazine=[[Entertainment Weekly|EW.com]]|publisher=[[Entertainment Weekly]]. [[Time Inc.]] |date=December 15, 2005|accessdate=August 14, 2010}}</ref> Ngoài ra, ''[[Rolling Stone]]'' nói rằng "chuỗi nốt nhạc thay đổi liên tục từ những bài hát như 'Vision of Love', đã truyền cảm hứng cho toàn bộ trường phái thanh nhạc của ''[[American Idol]]'', dù tốt hơn hay tệ hơn, và hầu như mọi nữ ca sĩ R&B khác kể từ những năm 90."<ref name=RollingStone-Nov2008>{{chú thích web|title=The 100 Greatest Singer of All Time : Rolling Stone|work=Rolling Stone|publisher=[[Jann Wenner]]|date=November 12, 2008|url=https://www.rollingstone.com/music/lists/100-greatest-singers-of-all-time-19691231/mariah-carey-19691231|accessdate=August 14, 2010|archive-url=https://web.archive.org/web/20111027102514/http://www.rollingstone.com/music/lists/100-greatest-singers-of-all-time-19691231/mariah-carey-19691231|archive-date=October 27, 2011|dead-urldeadurl=yes}}</ref> Bill Lamb từ [[About.com]] nói rằng "'Vision of Love' là một trong những bài hát hay nhất trong sự nghiệp của Mariah [...] Nó đơn giản là một trong những bản phát hành đầu tay ấn tượng nhất từng tồn tại của một nghệ sĩ thu âm nhạc pop.""<ref>{{chú thích web|last=Lamb|first=Bill| title='Mariah Carey'|work =About.com|publisher=The New York Times Company|url=http://top40.about.com/od/reviews/gr/mcareyfirst.htm|accessdate=August 30, 2008}}</ref>
 
"[[Love Takes Time]]" là đĩa đơn thứ hai của album và trở thành đĩa đơn tiếp theo của Carey đứng đầu bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ.<ref name="Hot 100">{{chú thích web|url={{BillboardURLbyName|artist=mariah carey|chart=Hot 100}}|title=Mariah Carey Album & Song Chart History|work=Billboard|publisher=Prometheus Global Media|accessdate=September 14, 2010}}</ref> Trong khi đạt được những thành công mạnh mẽ ở thị trường trong nước, "Love Takes Time" chỉ lọt vào top 10 ở Canada và New Zealand, cũng như top 20 ở Đức, Hà Lan và Vương quốc Anh.<ref>{{Chú thích web|url=http://dutchcharts.nl/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Love+Takes+Time&cat=s|title=Mariah Carey – Love Takes Time|work=Dutchcharts.nl|publisher=Hung Medien|accessdate=December 20, 2010}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.officialcharts.com/charts/singles-chart/19901202/7501/|title=Top 40 Official UK Albums Archive|work=[[Official Charts Company]]|date=December 8, 1990|accessdate=November 28, 2010}}</ref> Đĩa đơn tiếp theo, "[[Someday (bài hát của Mariah Carey)|Someday]]" cũng gặt hái kết quả tương tự như "Love Takes Time", đứng đầu các bảng xếp hạng ở Mỹ và Canada.<ref name="Hot 100"/><ref>{{chú thích web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1468&type=1&interval=50&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|title=Top Singles – Volume 53, No. 15, March 16, 1991|work=RPM|publisher=RPM Music Publications Ltd|date=March 16, 1991|accessdate=September 13, 2010|archive-url=https://web.archive.org/web/20121018133105/http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1468&type=1&interval=50&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|archive-date=October 18, 2012|dead-urldeadurl=yes}}</ref> Tại Úc, nó đạt vị trí ngoài top 40, và vươn đến hạng 38 ở Pháp và Anh.<ref>{{Chú thích web|url=http://dutchcharts.nl/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Someday&cat=s|title=Mariah Carey – Someday|work=Dutchcharts.nl|publisher=Hung Medien|accessdate=December 20, 2010}}</ref> "I Don't Wanna Cry", đĩa đơn thứ tư của album, cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ.<ref name="Hot 100"/> Bên cạnh việc đạt vị trí thứ hai ở Canada, nó còn đứng ở vị trí thứ 49 ở Úc.<ref>{{chú thích web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1552&type=1&interval=50&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|title=Top Singles – Volume 54, No. 3, June 22, 1991|work=RPM|publisher=RPM Music Publications Ltd|date=June 22, 1991|accessdate=September 13, 2010|archive-url=https://web.archive.org/web/20121019145215/http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1552&type=1&interval=50&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|archive-date=October 19, 2012|dead-urldeadurl=yes}}</ref> Đĩa đơn thứ năm, "[[There Got to Be a Way]]", được phát hành ở Vương quốc Anh, và đạt vị trí thứ 54.<ref name="nick11"/>
 
==Đánh giá chuyên môn==
{{Album ratings
| rev1 = [[AllMusic]]
| rev1Score = {{Rating|3.5|5}}<ref name="allmusic"/>
| rev2 = ''[[Chicago Tribune]]''
| rev2Score = {{Rating|3.5|4}}<ref name="CT"/>
| rev3 = ''[[Encyclopedia of Popular Music]]''
| rev3Score = {{Rating|3|5}}<ref>{{chú thích sách|last=Larkin|first=Colin|authorlink=Colin Larkin (writer)|year=2011|chapter=Mariah Carey|title=[[Encyclopedia of Popular Music]]|publisher=[[Omnibus Press]]|isbn=0857125958|edition=5th}}</ref>
| rev4 = ''[[Entertainment Weekly]]''
| rev4Score = B−<ref name="EWreviews">{{chú thích tạp chí|url=https://www.ew.com/ew/article/0,,317531,00.html|title=Music Capsules (Mariah Carey: ''Mariah Carey'')|last=Sandow|first=Greg|magazine=[[Entertainment Weekly]]|date=June 8, 1990|accessdate=June 1, 2012}}</ref>
| rev5 = ''[[Q (magazine)|Q]]''
| rev5Score = {{Rating|4|5}}<ref name="Qreview">{{chú thích tạp chí |date=July 2001 |journal=[[Q (magazine)|Q magazine]] |pages=131 |last=Ross|first=Jonathan|title=Mariah Carey: Mariah Carey review |issn=0955-4955}}</ref>
| rev6 = ''[[The Rolling Stone Album Guide]]''
| rev6Score = {{Rating|3|5}}<ref name="Berger"/>
| rev7 = ''[[The Village Voice]]''
| rev7Score = C<ref name="CG"/>
}}
Sau khi phát hành, ''[[Entertainment Weekly]]'' viết rằng trong khi Carey sở hữu một "giọng hát đáng kinh ngạc và tiêu tưởng cao", album lại trở nên tệ hại bởi khâu sáng tác kém.<ref name="EWreviews"/> [[Robert Christgau]] có quan điểm gay gắt hơn trên ''[[The Village Voice]]'', khi đề cập đến nguồn gốc [[opera]] của mẹ Carey một cách không mấy hào hứng cũng như chỉ ra nhiều dẫn chứng thiếu rõ ràng về chủ đề tình yêu của nó.<ref name="CG">{{chú thích báo|last=Christgau|first=Robert|authorlink=Robert Christgau|date=December 4, 1990|title=Consumer Guide: Turkey Shoot|newspaper=[[The Village Voice]]|url=http://www.robertchristgau.com/xg/cg/ts90-90.php|accessdate=September 16, 2016}}</ref> Jan DeKnock từ ''[[Chicago Tribune]]'' cảm thấy ấn tượng hơn với album, nhận thấy nó có nhiều "bản nhạc lấp lánh" thể hiện khả năng sáng tác và sản xuất của Carey, đặc biệt là "Vanishing".<ref name="CT">{{chú thích web|last=DeKnock|first=Jan|date=July 19, 1990|url=http://articles.chicagotribune.com/1990-07-19/features/9003010028_1_star-whitney-houston-sparkling|title=Mariah Carey (Columbia)|work=[[Chicago Tribune]]|accessdate=September 16, 2016}}</ref> ''Mariah Carey'' nhận được đề cử tại [[giải Grammy lần thứ 33]] cho [[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]], trong khi "Vision of Love" được đề cử ở ba hạng mục và chiến thắng giải [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất]], đồng thời Carey cũng được trao giải [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]].<ref name="nick3"/> Ngoài ra, album còn được vinh danh là Album số 1 tại [[Giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 1991|giải thưởng Âm nhạc ''Billboard'' năm 1991]] và [[Giải thưởng Soul Train Music cho Album R&B/Soul xuất sắc nhất - Nữ|Album R&B/Soul xuất sắc nhất, Nữ]] tại [[Giải thưởng Soul Train Music năm 1991|giải thưởng Soul Train Music vào cùng năm]].<ref>{{chú thích web|url=https://www.billboardmusicawards.com/winners-database/?winnerKeyword=mariah+carey&winnerYear=&winnerCategory=|title=List of BBMAs won by Mariah Carey|website=[[Billboard (magazine)|Billboard]]|accessdate=April 17, 2017}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://awardsandwinners.com/category/soul-train-music-awards/1991/ |title=Soul Train Music Awards 1991 Winners & Nominees |accessdate=2016-10-15}}</ref>
 
Trong ''[[The Rolling Stone Album Guide]]'' (2004), Arion Berger viết rằng "Carey đã ra mắt với một album gồm những bản dance pop và R&B ballad thăng hoa, với tất cả các sáng tác đều được đồng tác giả bởi Carey và mỗi người đều tạo cơ hội để cô ấy phát huy hết giọng hát của mình."<ref name="Berger">{{chú thích sách|last=Berger|first=Arion|chapter=Mariah Carey|pages=[https://archive.org/details/newrollingstonea00brac/page/138 138–39]|year=2004|editor1-last=Brackett|editor1-first=Nathan|editor2-last=Hoard|editor2-first=Christian|title=[[The Rolling Stone Album Guide]]|publisher=[[Simon and Schuster]]|isbn=0743201698}}</ref> Ashley S. Battel từ [[AllMusic]] nhận thấy đĩa hát này "cực kỳ ấn tượng" và mô tả các bài hát là "những bản ballad êm ái và những giai điệu dance/R&B bay bổng" trong một album "làm bàn đạp cho những thành công trong tương lai". "Carey thiết lập một tiêu chuẩn mạnh mẽ để so sánh với các nghệ sĩ đột phá khác thuộc thể loại này", Battel kết luận.<ref name="allmusic">{{chú thích web|url={{AllMusic|class=album|id=r3320|pure_url=yes}}|title=Mariah Carey|last=Erlewine|first=Stephen Thomas|authorlink=Stephen Thomas Erlewine|work=[[AllMusic]]|publisher=[[All Media Guide]]|accessdate=September 4, 2009}}</ref> Năm 2017, ''[[Complex (tạp chí)|Complex]]'' xếp nó ở vị trí thứ 50 trong danh sách 50 Album R&B xuất sắc nhất thập niên 1990.<ref>{{chú thích web|url=https://www.complex.com/music/best-90s-r-and-b-albums/|title=The Best R&B Albums of '90s|publisher=[[Complex (tạp chí)|Complex]]|accessdate=ngày 11 tháng 10 năm 2020}}</ref>
 
==Diễn biến thương mại==
''Mariah Carey'' ra mắt bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] ở vị trí thứ 80, và vươn đến top 20 trong tuần thứ tư. Nó đứng đầu bảng xếp hạng trong tuần thứ 36, nhờ sự xuất hiện của Carey tại lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 33, và trụ vững trong 11 tuần liên tiếp; cho đến nay, đây vẫn là bản thu âm giữ vị trí số một lâu nhất trong sự nghiệp của nữ ca sĩ.<ref name="nick11"/> Nó tồn tại ở top 20 trong 65 tuần và trên ''Billboard'' 200 trong 113 tuần.<ref name="nick11">{{harvnb|Nickson|1998|pp=35–38}}</ref> ''Mariah Carey'' được chứng nhận chín đĩa Bạch kim bởi [[RIAA]] vào ngày 15 tháng 12 năm 1999. Album đã bán được 4.885.000 bản tại Hoa Kỳ, theo [[Nielsen SoundScan]], vốn bắt đầu tính doanh số sau ngày 1 tháng 1 năm 1991.<ref>{{chú thích báo |url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/week-ending-oct-13-2013-albums-miley-bangs-150102690.html |title=Miley Cyrus Twerks Her Way to ... 9th Place? |author= Paul Grein |work=Chart Watch |publisher=Yahoo|date=October 16, 2013 }}</ref> Nó trở thành album bán chạy nhất năm 1991 tại Hoa Kỳ.<ref name="Billboard end of 1991">{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/charts/year-end/1991/the-billboard-200|title= The Billboard 200 – Year-End Charts – 1991|work=Billboard|publisher=Prometheus Global Media|accessdate=August 11, 2010|date=December 21, 1991 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20071211064035/http://www.billboard.com/charts/year-end/1991/the-billboard-200 |archivedate=December 11, 2007}}</ref>
 
Tại Canada, album đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng [[RPM (tạp chí)|Canadian ''RPM'' Albums]] trong tuần ngày 20 tháng 4 năm 1991.<ref>{{chú thích web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1497&type=1&interval=20&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|title=Top Albums/CDs – Volume 53, No. 20, April 20, 1991|work=[[RPM (magazine)|RPM]]|publisher=RPM Music Publications Ltd|date=April 20, 1990|accessdate=September 21, 2010|archive-url=https://web.archive.org/web/20121018000404/http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.1497&type=1&interval=20&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|archive-date=October 18, 2012|deadurl=yes}}</ref> ''Mariah Carey'' đã bảy lần được chứng nhận Bạch kim bởi [[Music Canada|Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada]] (CRIA), công nhận doanh số tiêu thụ 700.000 bản.<ref>{{chú thích web|url=https://musiccanada.com/gold-platinum/?_gp_search=Mariah%20Carey&_gp_format=album|title=Gold/Platinum - Music Canada|work=[[Music Canada]]|accessdate=ngày 11 tháng 10 năm 2020}}</ref> Album đạt vị trí thứ sáu tại Úc, nơi nó đạt hai đĩa Bạch kim và đứng thứ sáu trong danh sách 50 album bán chạy nhất năm 1991 tại đây.<ref name=ryan/><ref name="ariacerti">{{chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-50albums-1991.htm|title=ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Albums 1991|date=December 3, 1991|work=[[Australian Recording Industry Association]]|accessdate=August 9, 2010}}</ref> Trong tuần ngày 15 tháng 9 năm 1990, ''Mariah Carey'' lọt vào bảng xếp hạng album của Vương quốc Anh với vị trí thứ sáu.<ref>{{chú thích web|url=https://www.officialcharts.com/search/albums/Mariah%20Carey|title=Mariah Carey – Mariah Carey|work=[[Official Charts Company]]|accessdate=December 17, 2010}}</ref> Sau 40 tuần biến động trên bảng xếp hạng, album được chứng nhận Bạch kim bởi [[British Phonographic Industry|Ngành ghi âm Anh quốc]] (BPI), với lượng đĩa xuất xưởng đạt 300.000 bản.<ref name="BPI certification-database">{{chú thích web|url=http://www.bpi.co.uk/certifiedawards/search.aspx |title=Certified Awards Search |publisher=[[British Phonographic Industry]] |accessdate=August 25, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20090924015932/http://www.bpi.co.uk/certifiedawards/search.aspx |archivedate=September 24, 2009 }}</ref> Tính đến nay, doanh số bán album trên toàn thế giới đã đạt hơn 15&nbsp;triệu bản.<ref name="wwsales"/>
 
==Di sản==
[[File:Mariah Carey 1990 cropped.jpg|thumb|right|180px|Carey ''(ảnh chụp năm 1990)'' đã trở thành ngôi sao nổi tiếng nhờ tác động của album mang chính tên cô.]]
Kể từ khi phát hành, ''Mariah Carey'' đã được ca ngợi như là một tác phẩm kinh điển của nhạc [[Nhạc pop|pop]] và [[R&B đương đại|R&B]], với Trevor Anderson của ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' mô tả nó như là bước khởi đầu "cho một trong những câu chuyện thành công nhất lịch sử nhạc pop".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/review/album-review/6597999/mariah-carey-debut-anniversary-track-by-track|title=Mariah Carey's Self-Titled Debut at 25: Classic Track-by-Track Review|website=Billboard|accessdate=2019-12-22}}</ref> Nhận xét về thành công của album trong bối cảnh "đặc biệt bão hòa của nhạc pop nữ năm 1990", Anderson nói thêm rằng bản thu âm giúp Carey ghi dấu ấn với tư cách là một trong những giọng ca hàng đầu trong thế hệ của cô.
 
Tầm ảnh hưởng rộng rãi từ phong cách hát của Carey trong album, đặc biệt là "Vision of Love", cũng được giới chuyên môn ghi nhận. Viết cho ''[[Billboard (tạp chí)|Complex]]'', Elena Bergeron mô tả đĩa hát là "album thiết lập hàng triệu bước nhảy vọt", nói rằng nó "đưa toàn bộ thế hệ nữ ca sĩ tương lai một thứ gì đó để hát vào chiếc lược chải tóc của họ".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.complex.com/music/best-90s-r-and-b-albums/|title=The 50 Best R&B Albums of the '90s|website=Complex|accessdate=2019-12-22}}</ref> Ca sĩ R&B [[Beyoncé]] nói rằng cô bắt đầu tập luyến giọng sau khi nghe "Vision of Love" lần đầu tiên, nói rằng nó đã truyền cảm hứng để cô bước vào ngành công nghiệp âm nhạc.<ref>{{Chú thích báo|url=https://www.newyorker.com/magazine/2006/04/03/on-top|title=On Top|last=Frere-Jones|first=Sasha|date=2006-03-27|accessdate=2019-12-22|issn=0028-792X}}</ref> [[Christina Aguilera]] cũng nói rằng album của Carey có ảnh hưởng lớn nhất đến phong cách thanh nhạc và cách chuyển giọng của cô. Theo Pier Dominguez, tác giả của ''Christina Aguilera: A Star is Made'', hình ảnh người phụ nữ trưởng thành được gầy dựng một cách hoàn hảo của Carey đã đánh đúng tâm lý của Aguilera, người mà ảnh hưởng cũng bắt nguồn từ thực tế rằng cả hai đều có xuất thân đa chủng tộc.<ref>{{Chú thích sách|url=http://archive.org/details/christinaaguiler0000domi|title=Christina Aguilera : a star is made : the unauthorized biography|last=Dominguez|first=Pier|date=2003|publisher=Phoenix : Colossus Books|others=Internet Archive}}</ref>
 
Hai chiến thắng của Carey tại [[giải Grammy lần thứ 33]] cũng được các nhà phê bình quan tâm, đặc biệt sau những tranh cãi xung quanh việc hát nhép của [[Milli Vanilli]] một năm trước đó. Phát biểu trước báo giới sau khi giành giải [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]], Carey nói: "Với tất cả những tranh cãi xung quanh giải thưởng này, tôi hy vọng sẽ đưa nó trở lại là hạng mục của những ca sĩ kiêm nhạc sĩ thực thụ, nơi mà những người theo sau tôi đều có thể tự hào khi nhận được vinh dự này như tôi."<ref>{{chú thích|title=Mariah Carey- Grammy Awards press room Interview (1991)|url=https://www.youtube.com/watch?v=lF1cHRR8BSU|accessdate=ngày 22 tháng 12 năm 2019}}</ref> Màn trình diễn "Vision of Love" của nữ ca ca sĩ tại buổi lễ đã liên tục được xếp hạng là một trong những màn trình diễn trao giải hay nhất mọi thời đại. Andrew Unterberger của ''Billboard'' đã mô tả nó đã thể hiện Carey "ở trạng thái hoàn toàn quái kiệt, và phác họa cách luyến láy giọng hát vô tiền khoáng hậu bằng tay và thỉnh thoảng vang khắp khán phòng; không phô trương quá mức nhưng cũng không sợ thể hiện".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/news/grammys/7677099/best-award-show-performances-of-all-time|title=The 100 Greatest Award Show Performances of All Time|website=Billboard|accessdate=ngày 22 tháng 12 năm 2019}}</ref> Unterberger nhận xét thêm về việc Carey tiếp cận rộng rãi hơn với công chúng sau màn ra mắt tại lễ trao giải, bình luận về cách "Đĩa hát đầu tay mang tên của Mariah đứng đầu ''Billboard'' 200 và ở lại trong 11 tuần" sau sự xuất hiện của cô.
 
Sự thẳng thắn của nữ ca sĩ về nguồn gốc đa chủng tộc của mình tại thời điểm ra mắt bản thu âm đầu tay cũng đã được các nhà phê bình âm nhạc lẫn xã hội học bình luận. Theo ghi nhận của Giáo sư [[Michael Eric Dyson]] trong cuốn sách của ông, ''Between God and Gangsta Rap: Bearing Witness to Black Culture,'' việc Carey "từ chối cúi đầu trước áp lực dư luận" xung quanh bản chất sắc tộc của cô đã phơi bày "sự hỗn độn, đôi khi độc đoán đến từ những quan điểm mang tính định kiến và phân biệt" và "mâu thuẫn chủng tộc trong nền nhạc pop đương đại" vào thời điểm đó.<ref>{{Chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/1994/02/13/arts/pop-view-black-or-white-labels-don-t-always-fit.html|title=POP VIEW; Black or White? Labels Don't Always Fit|last=Dyson|first=Michael Eric|date=1994-02-13|work=The New York Times|accessdate=ngày 22 tháng 12 năm 2019|issn=0362-4331}}</ref> Sika Dagbovie-Mullins của [[Đại học Florida Atlantic]] đã ghi nhận Carey trong việc phá bỏ những rào cản chủng tộc tồn tại giữa nhạc pop và R&B, ca ngợi cô là "nữ anh hùng đa chủng tộc" trong nhiều thế hệ ca sĩ và nhạc sĩ đa chủng tộc.<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=lNt8VX1yI3UC&printsec=frontcover&hl=en|title=Crossing Black: Mixed-Race Identity in Modern American Fiction and Culture|last=Dagbovie-Mullins|first=Sika|date=2013-01-25|publisher=Univ. of Tennessee Press|isbn=978-1-57233-977-4}}</ref>
 
==Danh sách bài hát==
Hàng 116 ⟶ 152:
| length11 = 3:49}}
 
'''NotesChú thích'''
*{{sup|{{note|a|[a]}}}} nghĩa là hỗ trợ sản xuất
 
Hàng 254 ⟶ 290:
{{certification Table Entry|type=album|region=Australia|artist=Mariah Carey|title=Mariah Carey |award=Bạch kim|number=4|certyear=1992|relyear=1990|certref=<ref name=ryan>{{chú thích sách|last=Ryan|first=Gavin|title=Australia's Music Charts 1988–2010|year=2011|publisher=Moonlight Publishing|location=Mt. Martha, VIC, Australia}}</ref>}}
{{certification Table Entry|type=album|region=Canada|artist=Mariah Carey|title=Mariah Carey|award=Bạch kim|number=7|certyear=1996|relyear=1990|accessdate=August 30, 2017}}
{{certification Table Entry|type=album|region=Japan|artist=マライア・キャリー|title=マライア|award=Bạch kim|number=3|certyear=1995|relyear=1990|certref=<ref>{{chú thích web|url=http://www.riaj.or.jp/issue/record/1996/199611.pdf |title=RIAJ > The Record > November 1996 > Highest Certified International Albums/Singles (Mar '89 - Sep '96) |publisher=[[Recording Industry Association of Japan]] |language=JapaneseNhật |accessdate=January 30, 2014 |dead-urldeadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150110091234/http://www.riaj.or.jp/issue/record/1996/199611.pdf |archivedate=January 10, 2015 }}</ref>}}
{{certification Table Entry|type=album|region=Netherlands|artist=Mariah Carey|title=Mariah Carey |award=Bạch kim|certyear=1992|relyear=1990|accessdate=August 30, 2017}}
{{certification Table Entry|type=album|region=New Zealand|artist=Mariah Carey|title=Mariah Carey|award=Bạch kim|number=4|certyear=1996|relyear=1990|recent=website|id=3478|certref=<ref>{{chú thích sách|author=Dean Scapolo|title=The Complete New Zealand Music Charts 1966-2006|publisher=RIANZ|year=2007|isbn=978-1-877443-00-8}}</ref>}}