Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ tiêu hóa người”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 117:
 
Tuyến tụy cũng là nguồn cung cấp enzym chính để tiêu hóa [[chất béo]] và protein. Một số trong số này được giải phóng để đáp ứng với việc sản xuất [[Cholecystokinin|CKK]] trong tá tràng. (Ngược lại, các enzym tiêu hóa polysaccharid chủ yếu được tạo ra bởi thành ruột. ) Tế bào chứa đầy các hạt tiết có chứa các enzym tiêu hoá tiền thân. Các [[protease]] chính, các enzym tuyến tụy hoạt động trên protein, là [[trypsinogen]] và [[chymotrypsinogen]] . [[Elastase]] cũng được sản xuất. Một lượng nhỏ hơn của lipase và amylase được tiết ra. Tuyến tụy cũng tiết ra [[phospholipase A2]], [[lysophospholipase]] và [[cholesterol]] [[Xóa|esterase]] . Các [[zymogens]] tiền thân, là các biến thể không hoạt động của các enzym; giúp tránh sự khởi phát của [[viêm tụy]] do quá trình tự phân hủy. Sau khi được giải phóng trong ruột, enzym [[enteropeptidase]] có trong niêm mạc ruột sẽ kích hoạt trypsinogen bằng cách phân tách nó để tạo thành trypsin; sự phân tách tiếp tục tạo ra chymotripsin.
 
=== Ống tiêu hóa dưới ===
Đường tiêu hóa dưới (GI), bao gồm [[ruột non]] và tất cả [[ruột già]] . <ref>{{MeshName|Lower+Gastrointestinal+Tract}}</ref> Ống tiêu hóa dưới bắt đầu từ cơ thắt môn vị của dạ dày và kết thúc ở hậu môn. Ruột non được chia nhỏ thành [[tá tràng]], [[hỗng tràng]] và [[hồi tràng]] . Manh tràng đánh dấu sự phân chia giữa ruột non và ruột già. Ruột già bao gồm trực tràng và [[ống hậu môn]] . <ref name="eb3">{{Chú thích web|url=https://www.britannica.com/science/large-intestine|tựa đề=Large intestine|ngày=2016|nhà xuất bản=Encyclopedia Britannica|ngày truy cập=1 October 2016}}</ref>
 
==== Ruột non ====
[[Tập tin:Duodenumanatomy.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Duodenumanatomy.jpg|phải|nhỏ|300x300px|Duodenum]]
Thức ăn đã được tiêu hóa một phần bắt đầu đến [[ruột non]] dưới dạng [[dưỡng chấp]] bán lỏng, một giờ sau khi ăn.  Sau trung bình 1,2 giờ, dạ dày trống một nửa. <ref name="Read">{{Chú thích tạp chí|last=Read|first=NW|last2=Al-Janabi|first2=MN|last3=Holgate|first3=AM|last4=Barber|first4=DC|last5=Edwards|first5=CA|date=March 1986|title=Simultaneous measurement of gastric emptying, small bowel residence and colonic filling of a solid meal by the use of the gamma camera|journal=Gut|volume=27|issue=3|pages=300–8|doi=10.1136/gut.27.3.300|pmc=1433420|pmid=3699551|doi-access=free}}</ref> Sau bốn hoặc năm giờ dạ dày sẽ trống rỗng. <ref name="Colorado">{{Chú thích web|url=http://www.vivo.colostate.edu/hbooks/pathphys/digestion/basics/transit.html|tựa đề=Gastrointestinal Transit: How Long Does It Take?|website=colostate.edu|nhà xuất bản=Colorado State University|ngày truy cập=April 1, 2020}}</ref>
 
Trong ruột non, [[PH|độ pH]] trở nên quan trọng; nó cần được cân bằng tốt để kích hoạt các enzym tiêu hóa. Chyme rất có tính axit, với độ pH thấp, đã được giải phóng khỏi dạ dày và cần được tạo ra nhiều kiềm hơn. Điều này đạt được ở '''[[tá tràng]]''' bằng cách bổ sung mật từ túi mật kết hợp với chất tiết [[Bicacbonat|bicarbonat]] từ ống tụy và cũng từ bài tiết chất nhầy giàu bicarbonat từ các tuyến tá tràng được gọi là [[Các tuyến của Brunner|tuyến Brunner]] . Chất chyme đến ruột sau khi được giải phóng khỏi dạ dày thông qua sự mở của [[Cơ vòng môn vị|cơ thắt môn vị]] . Hỗn hợp dịch kiềm tạo thành sẽ trung hòa axit dịch vị, chất này có thể làm hỏng lớp niêm mạc của ruột. Thành phần chất nhầy làm nhiệm vụ bôi trơn thành ruột.
 
Khi các phần tử thức ăn được tiêu hóa giảm đủ về kích thước và thành phần, chúng có thể được hấp thụ bởi thành ruột và đưa đến máu. Nơi chứa đầu tiên của loại chyme này là hành [[Bóng đèn tá tràng|tá tràng]] . Từ đây nó đi vào đoạn đầu tiên trong ba đoạn của ruột non, tá tràng. (Đoạn tiếp theo là '''[[hỗng tràng]]''' và đoạn thứ ba là '''[[hồi tràng]] )''' . Tá tràng là đoạn đầu tiên và ngắn nhất của ruột non. Nó là một ống rỗng, có khớp nối hình chữ C nối dạ dày với hỗng tràng. Nó bắt đầu ở hành tá tràng và kết thúc ở [[Cơ treo tá tràng|cơ treo của tá tràng]] . Sự gắn kết của cơ treo này với cơ hoành được cho là có thể giúp thức ăn đi qua bằng cách tạo ra một góc rộng hơn ở nơi gắn của nó.
 
Hầu hết quá trình tiêu hóa thức ăn diễn ra ở ruột non. [[Các cơn co thắt phân đoạn]] hoạt động để trộn và di chuyển dưỡng chấp chậm hơn trong ruột non, cho phép có nhiều thời gian hơn để hấp thụ (và chúng tiếp tục ở ruột già). Trong tá tràng, lipase tuyến tụy được tiết ra cùng với một [[Cofactor|co-enzyme]], [[colipase]] để tiêu hóa thêm thành phần chất béo của chyme. Từ sự phân hủy này, các hạt nhỏ hơn của chất béo nhũ tương được gọi là [[Chylomicron|chylomicrons]] được tạo ra. Ngoài ra còn có các tế bào tiêu hóa được gọi là [[tế bào ruột]] lót trong ruột (phần lớn nằm trong ruột non). Chúng là những tế bào khác thường ở chỗ chúng có các [[Nhung mao ruột|nhung mao]] trên bề mặt, từ đó có vô số [[vi nhung mao]] trên bề mặt. Tất cả những nhung mao này tạo ra một diện tích bề mặt lớn hơn, không chỉ để hấp thụ dưỡng chấp mà còn để tiêu hóa sâu hơn nhờ một số lượng lớn các enzym tiêu hóa có trên vi nhung mao.
 
Các chylomicrons đủ nhỏ để đi qua nhung mao của tế bào ruột và vào các mao mạch [[bạch huyết]] của chúng được gọi là lacteal. Một chất lỏng màu trắng đục được gọi là [[nhũ chấp]], bao gồm chủ yếu là chất béo được nhũ tương của các chylomicron, là kết quả của sự trộn lẫn được hấp thụ với bạch huyết trong lacteal.{{Cần giải thích|date=April 2016}} Nhũ chấp sau đó được vận chuyển qua [[Hệ bạch huyết|hệ thống bạch huyết]] đến phần còn lại của cơ thể.
 
Cơ treo đánh dấu phần cuối của tá tràng và sự phân chia giữa đường tiêu hóa trên và đường tiêu hóa dưới. Đường tiêu hóa tiếp tục là hỗng tràng và sau đó là hồi tràng. Hỗng tràng, phần giữa của ruột non có [[Nếp gấp tròn|các nếp gấp tròn]], các vạt của màng niêm mạc kép bao bọc một phần và đôi khi bao bọc hoàn toàn [[Lòng ống|lòng]] ruột. Những nếp gấp này cùng với nhung mao giúp tăng diện tích bề mặt của hỗng tràng, giúp tăng hấp thu đường tiêu hóa, axit amin và axit béo vào máu. Các nếp gấp hình tròn cũng làm chậm quá trình di chuyển của thức ăn để có thêm thời gian hấp thụ các chất dinh dưỡng.
 
Phần cuối cùng của ruột non là hồi tràng. Điều này cũng chứa nhung mao và [[vitamin B12]] ; axit mật và bất kỳ chất dinh dưỡng dư thừa nào được hấp thụ ở đây. Khi chyme cạn kiệt chất dinh dưỡng, chất thải còn lại sẽ chuyển thành dạng bán rắn gọi là [[Phân người|phân]], chuyển đến ruột già, nơi vi khuẩn trong [[Hệ vi khuẩn đường ruột|hệ thực vật đường ruột]] tiếp tục phân hủy protein và tinh bột còn sót lại. <ref>{{Chú thích tạp chí|last=Cummings|first=JH|last2=Macfarlane|first2=GT|date=November 1997|title=Role of intestinal bacteria in nutrient metabolism.|journal=JPEN. Journal of Parenteral and Enteral Nutrition|volume=21|issue=6|pages=357–65|doi=10.1177/0148607197021006357|pmid=9406136}}</ref>
 
Thời gian vận chuyển qua ruột non trung bình là 4 giờ. Một nửa lượng thức ăn còn sót lại trong bữa ăn đi qua khỏi ruột non trung bình 5,4 giờ sau khi qua miệng. Quá trình thức ăn đi hết ruột non hoàn tất sau trung bình 8,6 giờ. <ref name="Read2">{{Chú thích tạp chí|last=Read|first=NW|last2=Al-Janabi|first2=MN|last3=Holgate|first3=AM|last4=Barber|first4=DC|last5=Edwards|first5=CA|date=March 1986|title=Simultaneous measurement of gastric emptying, small bowel residence and colonic filling of a solid meal by the use of the gamma camera|journal=Gut|volume=27|issue=3|pages=300–8|doi=10.1136/gut.27.3.300|pmc=1433420|pmid=3699551|doi-access=free}}</ref>
 
==Tham khảo==