Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Red Velvet (nhóm nhạc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 42:
Ngày 11 tháng 3 năm 2015, cựu thành viên [[SM Rookies]] [[Yeri (ca sĩ)|Yeri]] được chính thức bổ sung vào đội hình của Red Velvet.<ref name="rvnewmember2">{{chú thích báo|url=http://www.bntnews.co.uk/app/news.php?nid=18877|title=Red Velvet Makes Its Comeback With A New Member|date=ngày 11 tháng 3 năm 2015|work=BNT News|last1=Ahn|first1=Woorim|accessdate=ngày 11 tháng 3 năm 2015}}</ref> Ngày 15 tháng 3, nhóm phát hành mini-album đầu tay ''[[Ice Cream Cake]]'' với hai đĩa đơn "Automatic" và "[[Ice Cream Cake]]".<ref>{{Chú thích web|url=http://tenasia.hankyung.com/archives/464594|ngày=ngày 11 tháng 3 năm 2015|website=10asia|ngôn ngữ=ko|script-title=ko:레드벨벳, 5인조로 컴백 '새 멤버 예리 합류'|ngày truy cập=ngày 11 tháng 3 năm 2015|author=Cho Jin-shil}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://osen.mt.co.kr/article/G1110100321|title=레드벨벳, 더블 타이틀 '오토매틱' MV 공개..몽환 반전매력|website=Osen|language=ko|author=Son Mi-kyung|date=ngày 15 tháng 3 năm 2015|accessdate=ngày 6 tháng 9 năm 2016}}</ref> Ngày 27 tháng 3, Red Velvet giành được chiến thắng đầu tiên kể từ khi ra mắt với "[[Ice Cream Cake]]" trên chương trình ''[[Music Bank (chương trình truyền hình)|Music Bank]]''. ''[[Ice Cream Cake]]'' là album của một nhóm nhạc nữ bán chạy nhất nửa đầu năm 2015 tại Hàn Quốc.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.koreadaily.com/news/read.asp?art_id=3470045|ngày=ngày 21 tháng 6 năm 2015|website=Korea Daily|ngôn ngữ=ko|script-title=ko:상반기 음반판매, 엑소 1~3위 석권..레드벨벳, 女유일 톱20|ngày truy cập=ngày 5 tháng 8 năm 2015|author=Gil Hye-seong}}</ref> Tháng 8 năm 2015, Red Velvet biểu diễn lần đầu tiên tại [[Mỹ]] trong lễ hội âm nhạc thường niên [[KCON (lễ hội âm nhạc)|KCON]] được tổ chức ở [[Los Angeles]], [[California]], [[Hoa Kỳ]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6656012/red-velvet-kcon-los-angeles-2015-interview|tiêu đề=Red Velvet Talk First U.S. Performance, Their New Member & Summer Songs at KCON 2015: Exclusive|website=Billboard|nhà xuất bản=Billboard|last1=Benjamin|first1=Jeff|ngày truy cập=ngày 11 tháng 9 năm 2015}}</ref>
 
Ngày 9 tháng 9, Red Velvet phát hành album phòng thu đầu tay ''[[The Red]]'' bao gồm mười bài hát trong đó có đĩa đơn "Dumb Dumb".<ref>{{Chú thích web|url=http://stoo.asiae.co.kr/news/view.htm?sec=enter99&idxno=2015090410011291722|tiêu đề=레드벨벳 9월9일 컴백 확정…SM 하반기 첫주자 [스포츠투데이]|ngày=ngày 4 tháng 9 năm 2015|website=Sports Today|ngôn ngữ=ko|ngày truy cập=ngày 4 tháng 9 năm 2015|author=Lee So-dam}}</ref> Album nhận được phản ứng tích cực từ giới phê bình,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6692444/red-velvet-dumb-mv-red-album|tiêu đề=Red Velvet Drop Brassy 'Dumb Dumb' Single, Quirky 'Red' Album|website=Billboard|nhà xuất bản=Billboard|last1=Benjamin|first1=Jeff|ngày truy cập=ngày 11 tháng 9 năm 2015}}</ref> đồng thời đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng [[World Albums Chart|World Albums]] của ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' và bảng xếp hạng [[Gaon Album Chart|album Gaon]] của [[Hàn Quốc]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6699635/red-velvet-the-red-album-no-1-world-albums?utm_source=twitter|tiêu đề=Red Velvet Earn First No. 1 on World Albums Chart With 'The Red'|ngày=ngày 15 tháng 9 năm 2015|website=Billboard|author=Benjamin, Jeff|ngày truy cập=ngày 2 tháng 12 năm 2015}}</ref> Album cũng lọt vào top 10 album [[K-pop]] xuất sắc nhất năm 2015 do ''[[Billboard]]'' bình chọn.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6828137/best-k-pop-albums-2015|tiêu đề=The 10 Best K-Pop Albums of 2015|last2=Oak|first2=Jessica|website=Billboard|nhà xuất bản=Billboard|last1=Benjamin|first1=Jeff|ngày truy cập=ngày 6 tháng 1 năm 2016}}</ref> Đĩa đơn "Dumb Dumb" đạt vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng [[World Digital Songs]] của ''Billboard'' và lọt vào top 20 bài hát K-pop xuất sắc nhất năm 2015 do ''Dazed'' bình chọn.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.dazeddigital.com/music/article/28607/1/the-top-20-k-pop-tracks-of-2015|tiêu đề=The top 20 K-Pop tracks of 2015|ngày=ngày 1 tháng 12 năm 2015|website=Dazed Digital|author=Glasby, Taylor|ngày truy cập=ngày 2 tháng 12 năm 2015}}</ref> Video âm nhạc của "Dumb Dumb" cũng lọt vào top 10 video âm nhạc xuất sắc nhất năm 2015 do ''[[Rolling Stone (tạp chí)|Rolling Stone]]'' bình chọn.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/lists/10-best-music-videos-of-2015-20151222/red-velvet-dumb-dumb-20151218|tiêu đề=10 Best Music Videos of 2015|ngày=ngày 22 tháng 12 năm 2015|website=Dazed Digital|author=Ducker, Erick|ngày truy cập=ngày 23 tháng 12 năm 2015}}</ref> Ngày 18 tháng 12, Red Velvet phát hành bài hát "Wish Tree" thuộc dự án âm nhạc ''[[Winter Garden (S.M. Entertainment)|Winter Garden]]'' của [[S.M. Entertainment|SM Entertainment]].<ref>{{Chú thích web|url=http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/100630/fx-red-velvet-and-boa-confirmed-for-winter-garden-project|tiêu đề=f(x) to Participate in SM′s 'Winter Garden' Project, More Artists to be Revealed|ngày=ngày 7 tháng 12 năm 2015|website=enewsWorld|ngày truy cập=ngày 16 tháng 12 năm 2015|author=Jeon Su-mi}}</ref>ALbum cũng xuất sắc đạt vị trí thứ 5 trong danh sách 100 album Kpop hay nhất của thập kỉ do [[Pitchfork (trang web)|Pitchfork]] bình chọn.
 
===2016: ''The Velvet'' và ''Russian Roulette''===
[[Tập tin:160519 한밭대학교 축제 - 레드벨벳 5.jpg|trái|nhỏ|Red Velvet biểu diễn vào ngày 18 tháng 5 năm 2016.]]Mini-album thứ hai của Red Velvet, ''[[The Velvet]]'', được lên kế hoạch phát hành vào ngày 16 tháng 3 năm 2016. Tuy nhiên, 10 phút trước thời điểm như đã công bố, [[S.M. Entertainment|SM Entertainment]] thông báo hoãn việc phát hành lại "nhằm đảm bảo chất lượng tốt hơn".<ref>{{Chú thích web|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201603161149310640622_2|first=Ji-young|last=Kim |ngày truy cập=ngày 18 tháng 3 năm 2016 |website=The Korea Herald |ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=Red Velvet postpones album release}}</ref> Do đó, album và đĩa đơn "One of These Nights" (tên [[tiếng Hàn]]: 7월 7일; [[Romaja quốc ngữ]]: 7wol 7il) được phát hành vào ngày 17 tháng 3.<ref>{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003270639|first=Mi-kyung|last=Seon |ngày truy cập=ngày 10 tháng 3 năm 2016 |website=Osen |ngày=ngày 2 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=SM "레드벨벳, 최근 신곡 MV 촬영..3월 컴백 목표"|ngôn ngữ=ko}}</ref> Với phong cách âm nhạc [[Rhythm and blues|R&B]], ''The Velvet'' thể hiện khía cạnh "velvet" nhẹ nhàng, nữ tính trong hình tượng của nhóm, tương phản với khía cạnh "red" sôi động, táo bạo ở ''The Red''.<ref name="FuseTV">{{Chú thích web|url=http://www.fuse.tv/2016/03/red-velvet-one-of-these-nights-mv|first=Jeff|last=Benjamin |ngày truy cập=ngày 18 tháng 3 năm 2016 |website=Fuse |ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=Red Velvet Returns With Dreamy R&B Ballad 'One of These Nights'}}</ref> "One of These Nights" đã giành chiến thắng năm lần trên các chương trình âm nhạc Hàn Quốc. Vào tháng 5, nhiều tờ báo tại [[Hàn Quốc]] đưa tin rằng nhóm đang chuẩn bị phát hành album mùa hè. Mặc dù đã bị hoãn nhiều lần nhưng cuối cùng nhóm đã phát hành mini album thứ ba của họ ''[[Russian Roulette (EP của Red Velvet)|Russian Roulette]]'' vào ngày 7 tháng 9.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.newsen.com/news_view.php?uid=201605261725330410|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|last1=Hwang|first1=Hye-jin|website=Newsen|ngày=ngày 26 tháng 5 năm 2016|tiêu đề=SM 측 "레드벨벳 컴백 준비중, 일정 확정되면 발표"|ngôn ngữ=Korean}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=076&aid=0002976550|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|last1=Park|first1=Young-woong|website=Naver|nhà xuất bản=Sports Chosun|ngày=ngày 19 tháng 8 năm 2016|tiêu đề=[단독] SM, 엑소 다음은 레드벨벳! 9월 새 앨범 컴백|ngôn ngữ=Korean}}</ref> Album bao gồm bảy bài hát với cả khúc chủ đề "[[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]]".<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Red Velvet to Make Comeback on September 7|last=Ahn|first=Woorim|website=bnt news|url=http://www.bntnews.co.uk/app/news.php?nid=31892|ngày truy cập=ngày 2 tháng 9 năm 2016|ngày=ngày 1 tháng 9 năm 2016}}</ref> Vào ngày 13 tháng 9 năm 2016, Red Velvet đã giành chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc cho [[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]] trên ''[[The Show (chương trình truyền hình Hàn Quốc)|The Show]]''.<ref>{{chú thích báo|url=http://news1.kr/articles/?2775264|title=레드벨벳, '더 쇼'서 컴백 첫 1위 "팬들께 감사"|date=ngày 13 tháng 9 năm 2016|accessdate=ngày 21 tháng 2 năm 2017|language=ko|publisher=news1.kr}}</ref> Bài hát chủ đề đạt vị trí thứ hai trên [[Gaon Digital Chart]] và bảng xếp hạng [[World Digital Songs]] của ''[[Billboard]],'' vị trí cao nhất của nhóm trên cả hai bảng xếp hạng vào thời điểm đó.<ref name="ALL 2016">[http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=38&hitYear=2016&termGbn=week South Korea's Weekly Gaon Digital Chart September 11-17, 2016 (in Korean)] Originally from [[Gaon Music Chart]] (September 2016). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2017.</ref> Bài hát chủ đề đã giành được 6 cúp âm nhạc trong các tần quảng bá. MV ca nhạc của bài hát "[[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]]" đạt được 100 triệu lượt xem trên [[YouTube]], đây là MV đầu tiên của nhóm đạt được thành tích này. Bài hát chủ đề lần này cũng xuất sắc được đề cử tại [[Korean Music Awards]] cho hạng mục Best Pop Song.
=== 2017: ''Rookie'', ''The Red Summer'', concert đầu tiên và ''Perfect Velvet'' ===
Ngày 1 tháng 2 năm 2017, Red Velvet phát hành mini-album thứ tư ''[[Rookie (EP)|Rookie]].<ref>{{chú thích báo|title=Red Velvet unveils music video for 'Rookie'|publisher=english.yonhapnews.co.kr|url=http://english.yonhapnews.co.kr/news/2017/02/01/0200000000AEN20170201006100315.html|accessdate=ngày 21 tháng 2 năm 2017|date=ngày 1 tháng 2 năm 2017}}</ref>'' Mini album bao gồm 6 bài hát, bao gồm bài hát chủ đề "[[Rookie (bài hát của Red Velvet)|Rookie]]", và cũng có bài hát solo của Wendy với tựa đề "Last Love" (tiếng Hàn: 마지막 사랑; Romaja quốc ngữ: ''majimag salang''). Album đạt vị trí thứ nhất trên cả hai bảng xếp hạng [[Gaon Album Chart]] và ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' [[Bảng xếp hạng Billboard#Album|World Albums]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/charts/world-albums/2017-02-18|tiêu đề=World Albums: The week of ngày 18 tháng 2 năm 2017|ngày=ngày 18 tháng 2 năm 2017|ngày truy cập=ngày 21 tháng 2 năm 2017|work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]}}</ref> Nhóm giành chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc cho "Rookie" trên ''The Show'' vào ngày 7 tháng 2, tiếp đó là chiến thắng trên ''[[Show Champion]]'', ''[[M Countdown]]'', [[Music Bank (chương trình truyền hình)|''Music Bank'',]] và ''[[Inkigayo]]''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.asiatoday.co.kr/view.php?key=20170208001339509|title=레드벨벳, ‘루키’로 1위 행진…美 빌보드부터 ‘더쇼’ 1위까지|date=ngày 8 tháng 2 năm 2017|accessdate=ngày 21 tháng 2 năm 2017|language=ko|publisher=asiatoday.co.kr}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.focus.kr/view.php?key=2017021700205532401|title=레드벨벳, 뮤직뱅크 2주 연속 1위…신곡 '루키' 중독성에 빠졌다|date=ngày 17 tháng 2 năm 2017|accessdate=ngày 21 tháng 2 năm 2017|language=ko|publisher=focus.kr|deadurl=yes|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170222111836/http://www.focus.kr/view.php?key=2017021700205532401|archivedate=ngày 22 tháng 2 năm 2017|df=mdy-all}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://tenasia.hankyung.com/archives/1140182|title=레드벨벳, ‘루키’로 ‘인기가요’ 2주 연속 1위|date=ngày 19 tháng 2 năm 2017|accessdate=ngày 17 tháng 4 năm 2017|publisher=Ten Asia}}</ref> Vào ngày 31 tháng 3, nhóm phát hành single đầu tiên cho ''[[SM Station|SM Station 2]]'' "Would U".<ref>{{chú thích báo|url=http://tenasia.hankyung.com/archives/1174774|title=레드벨벳, 봄맞이 달콤설렘송… ‘SM 스테이션2’ 막 올랐다|date=ngày 31 tháng 3 năm 2017|accessdate=ngày 17 tháng 4 năm 2017|publisher=Ten Asia}}</ref> Giúp cho việc quảng bá, từ ngày 27 tháng 7 đến 10 tháng 9, Red Velvet bắt đầu chương trình truyền hình thực tế đầu tiên của nhóm ''Level Up Project'' cho thấy các cảnh quay trong chuyến đi của năm thành viên đến [[Thái Lan]]. Chương trình kéo dài trong 23 tập mà không có sự tham gia của thành viên [[Joy (ca sĩ)|Joy]] vì cô phải quay hình của ''[[Kẻ nói dối và người tình (phim truyền hình)|The Liar and His Love]],'' bộ phim mà cô đảm nhận vai chính.<ref>{{chú thích báo|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=076&aid=0003122770|first=Ahn-ji|last=Jung|title=[공식] 레드벨벳, 첫 단독 리얼리티 시작…8월 2일 첫 방송|date=ngày 17 tháng 7 năm 2017|accessdate=ngày 6 tháng 12 năm 2017|publisher=Sports Chosun|website=naver}}</ref>
 
Ngày 26 tháng 4 năm 2017, Red Velvet công bố tên fandom chính thức là ReVeluv. Tên fandom của nhóm không chỉ là kết hợp giữa hai từ "Red Velvet" và "Love" mà còn đọc giống "Level Up" khi phát âm [[tiếng Hàn]]. Đồng thời cũng là cách viết tắt của Red Velvet luv - tượng trưng cho tình yêu giữa fan và Red Velvet. "Rêve" trong [[tiếng Pháp]] cũng có nghĩa là giấc mơ, ước mơ.[[Tập tin:170116 레드벨벳 아육대.jpg|nhỏ|Red Velvet tại đại hội thể thao [[Idol Star Athletics Championships|ISAC]] vào tháng 1 năm 2017]]
Ngày 9 tháng 7 năm 2017, Red Velvet phát hành mini-album thứ năm ''[[The Red Summer (EP)|The Red Summer]]'' gồm 5 bài hát với ca khúc chủ đề "[[Red Flavor (bài hát của Red Velvet)|Red Flavor]]"(tiếng Hàn: 빨간 맛; Romaja quốc ngữ: ''ppalgan mas'').<ref>{{Chú thích web|url=http://www.allkpop.com/article/2017/06/red-velvets-irene-introduces-the-tracklist-for-their-summer-special-album-the-red-summer|tiêu đề=Red Velvet's Irene introduces the tracklist for their summer special album 'The Red Summer'!}}</ref>, đánh dấu sản phẩm phát hành vào mùa hè đầu tiên của nhóm.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳, 7월 컴백 예정..SM "뮤비 촬영 마쳤다"(공식)|last=Kim|first=Hwi-seok|website=naver|url=http://entertain.naver.com/music/now/read?oid=108&aid=0002624461|ngày truy cập=ngày 30 tháng 6 năm 2017|ngày=ngày 23 tháng 6 năm 2017|ngôn ngữ=korean}}</ref> Mini-album tiếp tục đứng đầu cả hai bảng xếp hạng [[Gaon Album Chart]] của [[Hàn Quốc]] và [[World Albums Chart]] của ''[[Billboard]]''. "Red Flavor" cũng đạt vị trí thứ nhất trên cả hai bảng xếp hạng [[Gaon Digital Chart]] và [[Gaon Download Chart]].<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳 '빨간 맛', 가온차트 3관왕 '인기 이어간다' |last=Park| first=Geon-wook |website=Naver|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=469&aid=0000219404 |ngày truy cập=ngày 20 tháng 7 năm 2017 |ngày=ngày 20 tháng 7 năm 2017 |ngôn ngữ=korean}}</ref> Ngoài ra, "Red Flavor" lần đầu xuất hiện trên Gaon Digital Chart và Gaon Download Chart với 4 bài hát khác cũng nằm trong Top 50 of the Digital Chart.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳 '빨간 맛', 가온차트 3관왕 '인기 이어간다'|last=Park|first=Geon-wook|website=Naver|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=469&aid=0000219404|ngày truy cập=ngày 20 tháng 7 năm 2017|ngày=ngày 20 tháng 7 năm 2017|ngôn ngữ=korean}}</ref> BaịBài hát được [[Billboard]] bình chọn là bài hát Kpop hay nhất năm 2017 và xuất sắc thứ 2 của thập kỉ.
 
Tháng 8 năm 2017, nhóm phát hành một bài hát nữa cho dự án Station với tựa đề "Rebirth".
Dòng 61:
Vào ngày 4 tháng 10, [[SM Entertainment]] thông báo qua [[trang web]] [[tiếng Nhật]] rằng nhóm sẽ có showcase đầu tiên tại [[Nhật Bản]].<ref>{{Chú thích web|url=https://smtown-official.jp/news/n171004/|tiêu đề=Red Velvet Premium Showcase "ReVeluv-Baby Party"|ngôn ngữ=Japanese|accessdate =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref> "Red Velvet Premium Showcase F'U'N Room Reveluv-Baby Party" diễn ra tại Yebisu The Garden Hall ở [[Tokyo]] vào ngày 6 tháng 11.<ref>{{chú thích báo|url=https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2017/11/07/going-global-red-velvet-are-making-waves-japan|title=Going global! Red Velvet are making waves in Japan|work=SBS PopAsia|last=Peterson|first=Jacques|accessdate =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref> Ở đó, họ trình diễn phiên bản tiếng Nhật của "Dumb Dumb" và "Red Flavor" lần đầu tiên.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.musicman-net.com/artist/70457|tiêu đề=Red Velvet、日本初単独コンサート「Concert "Red Room" in JAPAN」開催決定|work=musicman-net|ngôn ngữ=Japanese|accessdate =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref> Sau khi kết thúc buổi showcase, họ đã thông báo chính thức rằng concert "Red Room" sẽ được tổ chức tại Nhật Bản trong năm 2018. Dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 28 và 29 tháng 3 tại Trung tâm thể thao Musashino Forest với 10,000 chỗ ngồi và là nơi sẽ tổ chức [[Thế vận hội Mùa hè 2020|2020 Tokyo Olympics]].<ref>{{chú thích báo|url=https://natalie.mu/music/news/255749|title=Red Velvet、キャパ1万人会場で日本初単独コンサート決定|work=natalie|language=Japanese|accessdate =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Red Velvet thể hiện lại phong cách "velvet" của nhóm trong album phòng thu thứ hai, ''[[Perfect Velvet]]'' được phát hành vào ngày 17 tháng 11 với ca khúc chủ đề "[[Peek-A-Boo (bài hát của Red Velvet)|Peak-a-Boo]]".<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8030062/red-velvet-perfect-velvet-album-peek-a-boo-tease|title=Red Velvet Teases 'Perfect Velvet' Album, Upcoming Single 'Peek-A-Boo'|work=Billboard|accessdate = ngày 15 tháng 11 năm 2017}}</ref> Không giống như lần phát hành đầu tiên của họ "velvet", album và đĩa đơn đều thành công về mặt thương mại.<ref name="Osen12">{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003671213|ngày truy cập=ngày 30 tháng 11 năm 2017|website=osen|author=Lee So-dam|nhà xuất bản=Osen|ngày=ngày 29 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=[Oh! 뮤직] 레드벨벳은 진화 중|ngôn ngữ=korean}}</ref> Album đạt vị trí thứ nhất trên [[World Albums Chart|World Album Chart]] của ''[[Billboard]].'' "[[Peek-A-Boo (bài hát của Red Velvet)|Peek-a-Boo]]" đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng [[Bảng xếp hạng Billboard|World Digital Songs]] của ''[[Billboard]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8053845/red-velvet-perfect-velvet-most-no-1s-on-world-albums-chart|ngày truy cập=ngày 30 tháng 11 năm 2017|website=billboard|last=Benjamin|first=Jeff|nhà xuất bản=Billboard|ngày=ngày 27 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=Red Velvet Tie for Most No. 1s on World Albums Chart Among All K-Pop Acts}}</ref>'' Tại Hàn Quốc, album và đĩa đơn "Peek-a-Boo" đều đạt vị trí thứ 2 trên Gaon Album Chart và Gaon Digital Chart.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Gaon Album Chart – Week 46, 2017|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=46&hitYear=2017&termGbn=week|website=[[Gaon Music Chart|Gaon Chart]]|ngôn ngữ=ko|ngày truy cập=ngày 23 tháng 11 năm 2017}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=47&hitYear=2017&termGbn=week|tiêu đề=2017 Gaon Digital Chart - Week 47|website=Gaon Music Chart|ngày=November 19-25, 2017|ngày truy cập=2017-12-14}}</ref>Bài hát chủ đề 'Peek-a-boo' là ca khúc thứ 3 của nhóm đạt được 100 triệu lượt nghe trên [[Spotify]].
=== 2018: ''The Perfect Red Velvet, #Cookie Jar, Summer Magic'' và ''RBB''===
 
Dòng 72:
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2018, [[S.M. Entertainment|S.M Entertainment]] thông báo rằng Red Velvet sẽ trình diễn cùng các nghệ sĩ khác của Hàn Quốc cho buổi [[concert]] Hàn Quốc tại [[Bình Nhưỡng]], [[Bắc Triều Tiên]]. Điều này khiến nhóm trở thành nghệ sĩ đầu tiên từ SM Entertainment trong 15 năm kể từ khi [[Shinhwa]] biểu diễn tại [[Bắc Triều Tiên]].<ref>{{chú thích báo|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=001&aid=0009982589|title=레드벨벳, 평양서 '빨간맛' '배드 보이' 부른다|date=ngày 26 tháng 3 năm 2018|accessdate=ngày 29 tháng 3 năm 2018|language=ko|publisher=[[Naver]]}}</ref>
 
Ngày 6 tháng 8 năm 2018, Red Velvet cho ra mắt mini album thứ 6 mang tên Summer Magic với ca khúc chủ đề là " Power Up". Sau khi ra mắt "Power Up" trở thành ca khúc đầu tiên của Red Velvet đạt perfect all-kill trên các bảng xếp hạng nhạc số. Red Velvet cũng là nghệ sĩ thuộc [[SM Entertainment|S.M Entertainment]] đầu tiên đạt perfect all-kill, và cũng là perfect all-kill nhanh nhất của các nhóm nữ Kpop. Đây cũng là bài hát đạt được nhiều cúp nhất trên các chương trinh âm nhạc của nhóm, với 10 cúp bao gồm 5 chương trình âm nhạc khác nhau. Album "Summer Magic" là album đầu tiên của nhóm đạt top 1 bảng xếp hạng [[iTunes]] Worldwide. Video ca nhạc của bài hát lọt top 100 video xuất sắc nhất [[YouTube|Youtube]] năm 2018 và là MV Kpop duy nhất lọt vào bảng xếp hạng này. 'Power Up' là bài hát đầu tiên của nhóm "chạm nóc" bảng xếp hạng Realtime của [[Melon (dịch vụ âm nhạc trực tuyến)|Melon]].
 
Đĩa đơn RBB (Really Bad Boy) được ra mắt vào ngày 30 tháng 11 năm 2018. Bài hát bị Knet chỉ trích vì giai điệu khó nghe. Tuy nhiên đây là bài hát đầu tiên của Red Velvet đạt vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales của [[Billboard Hot 100|Billboard]]. Đây là album trụ trên bảng xếp hạng World Album của Billboard lâu thứ ba của Red Velvet với 7 tuần liên tiếp.
Dòng 108:
Ngày 27 tháng 5 năm 2020, [[SM Entertainment]] thông báo nhóm nhỏ của [[Red Velvet]] sẽ có tên là Red Velvet - IRENE & SEULGI. Nhóm sẽ ra mắt vào ngày 15 tháng 6 cùng với mini album đầu tiên mang tên "Monster".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.facebook.com/RedVelvet/photos/a.603538679764308/2900964463355040/?type=3&theater|tựa đề='Fantastic unit' Red Velvet - IRENE & SEULGI to release 1st mini album on 6/15!|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> Nhưng sau đó 2 ngày, công ty đã thông báo trên [[Twitter]] rằng "Monster" sẽ được dời thời điểm ra mắt sang tháng 7. Lý do được đưa ra vì đội ngũ muốn hoàn thiện hơn về chất lượng âm nhạc và trình diễn, SM Entertainment gửi lời xin lỗi đến toàn thể người hâm mộ đã chờ đợi, đồng thời cũng tung 1 ảnh nhá hàng cho concept album của Red Velvet - IRENE & SEULGI.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.allkpop.com/article/2020/05/red-velvet-irene-and-seulgis-monster-mini-album-release-delayed-teaser-image|tựa đề=Red Velvet Irene and Seulgi's 'Monster' mini album release delayed + teaser image|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
 
Nhóm nhỏ Red Velvet - IRENE & SEULGI đã phát hành mini album mang tên [[Monster]] vào ngày 6 tháng 7 năm 2020 với 6 bài hát mang màu sắc khác nhau thể hiện sắc thái âm nhạc vô cùng đa dạng của nhóm. Nhóm đã có màn trình diễn đầu tiên tại [[Music Bank (chương trình truyền hình)|Music Bank]] bài hát sau một tuần quảng bá cũng giành được một cúp chiến thắng. [[Mónter|Monster]] cũng là album có tổng lượng sales tuần đầu cao nhất của cả nhóm trên [[Hanteo]], và có số hạng 1 bảng xếp hạng album [[ITunes]] nhiều nhất của nhóm- 52 nước. Album cũng đứng đầu bảng xếp hạng album [[ITunes]] toàn câu lâu thứ hai của nhóm nhạc nữ hàn với 4 ngày ở vị trí 1. Follow-up song của nhóm nhỏ là Naughty cũng giành được số hạng 1 bảng xếp hạng bài hát nhiều nhất vượt qua bài hát trước đó là Psycho. Mặc dù video ca nhạc của bài hát Monster bị dời đến ngày 7 tháng 7 nhưng lượng lượt xem ngày đầu đạt được hơn 11 triệu lượt xem trên [[YouTube]]. Bài hát chủ để Monster cũng đạt được vị trí thứ nhất bảng xếp hạng hệ thống cũ [[Melon (dịch vụ âm nhạc trực tuyến)|Melon]], đây là no1. đầu tiên của một nhóm nhỏ sau nhiều năm kể từ nhóm nhỏ SNSD-TTS. Tính tới ngày 8 tháng 10 năm 2020, 'Psycho' bài hát chủ đề phát hành từ năm ngoái của nhóm đã đạt được hơn 675.000.000 điểm kĩ thuật số trên [[Bảng xếp hạng Âm nhạc Gaon]], dẫn đầu trong các nhóm nhạc thần tượng.
 
== Phong cách âm nhạc ==