Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Daydream (album của Mariah Carey)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 34:
}}
 
'''''Daydream''''' là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ [[Mariah Carey]], phát hành ngày 3 tháng 10 năm 1995 bởi [[Columbia Records]]. Được phát hành sau thành công toàn cầu của album phòng thu trước ''[[Music Box (album)|Music Box]]'' (1993) và album dịp lễ ''[[Merry Christmas (album của Mariah Carey)|Merry Christmas]]'' (1994), ''Daydream'' thể hiện sự đổi mới trong âm nhạc của Carey với việc hướng đến những giai điệu [[Nhạc hip hop|hip hop]] và [[Nhạc urban|urban]]. Trong suốt dự án, Carey tiếp tục hợp tác với [[Walter Afanasieff]], người đã tham gia đồng viết lời và sản xuất ở hầu hết những bài hát trong hai album trước. Với ''Daydream''album, Carey bắt đầu chủ động hơn trong việc kiểm soát định hướng âm nhạc cũng như quá trình sáng tác nó. Ngoài ra, Careynữ ca sĩ cũng tiết lộ rằng cô nhìn nhận ''Daydream'' như là bước khởi đầu cho sự chuyển giao trong âm nhạc và giọng hát của cô, một sự thay đổi sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trong album tiếp theo ''[[Butterfly (album của Mariah Carey)|Butterfly]]'' (1997). Trong quá trình sản xuất nó, Carey vấp phải những bất đồng về mặt sáng tạo với giám đốc hãng đĩa và cũng là chồng của cô lúc bấy giờ [[Tommy Mottola]].<ref name="shapiro3">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=93–94}}</ref>
 
Trong ''Daydream'', Carey hợp tác lần đầu tiên với [[Jermaine Dupri]], cũng như đồng viết lời và sản xuất một bản nhạc với [[Babyface (nhạc sĩ)|Kenneth "Babyface" Edmonds]], người cô hợp tác trước đó trong ''Music Box''. Đây cũng là lần đầu tiên nữ ca sĩ làm việc với [[Boyz II Men]], một nhóm nhạc R&B gồm bốn giọng ca nam. Họ đã cùng nhau xây dựng ý tưởng và viết nên "[[One Sweet Day]]", một bài hát Carey đồng sản xuất với Afanasieff. Với sự hỗ trợ của ông và một số nhà sản xuất đương đại khác, nữ ca sĩ từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi vào thị trường nhạc R&B một cách tinh tế. ''Daydream'' nhận được sáu đề cử [[giải Grammy]] tại [[Giải Grammy lần thứ 38|lễ trao giải thường niên lần thứ 38]] nơi Carey cũng tham gia trình diễn. Sau những thành công to lớn về mặt chuyên môn lẫn thương mại của nó, nhiều nhà phê bình dự đoán rằng Carey sẽ là một trong những nghệ sĩ thắng lớn trong đêm.<ref name="nick10">{{harvnb|Nickson|1998|pp=154}}</ref> Tuy nhiên, cô không chiến thắng bất kỳ đề cử nào, dẫn đến một đề tài tranh luận công khai và gây nên tranh cãi tại thời điểm đó.<ref name="shapiro5">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=98}}</ref>
Dòng 40:
Sáu đĩa đơn đã được phát hành từ ''Daydream''. Đĩa đơn chủ đạo, "[[Fantasy (bài hát của Mariah Carey)|Fantasy]]", trở thành đĩa đơn đầu tiên của một nghệ sĩ nữ ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]] và trụ vững trong tám tuần liên tiếp, và là đĩa đơn bán chạy thứ hai của năm 1995 ở Hoa Kỳ. Nó cũng đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Canada, New Zealand và vươn đến top 5 ở Phần Lan, Pháp và Vương quốc Anh. "One Sweet Day" được phát hành làm đĩa đơn thứ hai và đạt vị trí số một trên ''Billboard'' Hot 100 trong mười sáu tuần liên tiếp, trở thành [[Kỷ lục của bảng xếp hạng Billboard Hot 100|đĩa đơn trụ vững ở ngôi vị quán quân lâu nhất trong lịch sử]], một kỷ lục sẽ tiếp tục tồn tại trong 23 năm. Với việc đĩa đơn thứ tư "[[Always Be My Baby]]" đứng đầu Hot 100 trong hai tuần, tất cả những đĩa đơn từ album đã thống trị bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ trong sáu tháng. Ba đĩa đơn còn lại "[[Open Arms (bài hát của Journey)#Phiên bản của Mariah Carey|Open Arms]]", "[[Forever (bài hát của Mariah Carey)|Forever]]" và "[[Underneath the Stars (bài hát)|Underneath the Stars]]" đều không được phát hành dưới hình thức đĩa đơn thương mại hoặc chỉ giới hạn ở một số khu vực.
 
Sau khi phát hành, ''Daydream'' trở thành album nhận được nhiều phản hồi tốt nhất của Carey từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự trưởng thành trong khâu sáng tác và định hướng âm nhạc mới của cô. Nó cũng gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều thị trường lớn như Úc, Nhật Bản và Vương quốc Anh, và lọt vào top 5 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, album được chứng nhận đĩa Kim cương từ [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ]] (RIAA), công nhận lượng đĩa tiêu thụ đạt mười triệu bản tại đây, và là đĩa hát thứ hai của Carey đạt được thành tích này. Ngoài ra, nó cũng là album bán chạy thứ tư ở Nhật Bản bởi một nghệ sĩ quốc tế, với 2.2 triệu bản được bán ra. Để quảng bá cho ''Daydream'', Carey bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn ngắn hạn nhưng thành công [[Daydream World Tour]], ghé thăm Nhật Bản và một vài quốc gia châu Âu. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 20 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong [[Danh sách album bán chạy nhất thế giới|những album bán chạy nhất mọi thời đại]].
 
==Bối cảnh==
Bên cạnh việc là đĩa hát bán chạy thứ hai của Carey trên toàn thế giới, ''Daydream'' còn đánh dấu bước ngoặt cho một album cá nhân và có nhiều ảnh hưởng nhất của cô vào thời điểm đó.<ref name="shapiro">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=90–91}}</ref> Trong quá trình thu âm nó, Carey đã phát triển khả năng như một nghệ sĩ thực thụ, cũng như một nhà viết lời. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Carey có thể tạo ra thứ âm nhạc mà cô thực sự cảm thấy kết nối, [[R&B đương đại|R&B]] và [[Nhạc hip hop|hip hop]].<ref name="shapiro" /> Trong khi Columbia cho phép Carey khoan dung hơn với âm nhạc mà cô thu âm, họ bắt đầu do dự khi nữ ca sĩ hợp tác với [[Ol' Dirty Bastard]] trong bản phối lại cho đĩa đơn đầu tiên của album "[[Fantasy (bài hát của Mariah Carey)|Fantasy]]".<ref name="shapiro2" /> Họ lo sợ rằng những sự thay đổi đột ngột này vốn hoàn toàn không nằm trong phạm vi âm nhạc của Carey, và lo lắng nó sẽ tác động xấu đến thành công của album.<ref name="shapiro2" /> Trong một cuộc phỏng vấn với ''[[Entertainment Weekly]]'', Carey cởi mở nói về những vấn đề của cô với Columbia: "Mọi người đều kiểu 'Bạn bị điên à?'. Họ lo lắng về việc phá vỡ những công thức. Việc để tôi hát một bản ballad trên sân khấu trong một chiếc áováy dài với mái tóc dựng lên [đối với họ] sẽ mang lại hiệu quả."<ref name="shapiro2">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=92}}</ref>
 
Trong khi hướng đi âm nhạc mới của Carey gây ra căng thẳng giữa cô và Columbia, nó cũng khởi nguồn cho những rạn nứt nghiêm trọng xảy ra trong mối quan hệ của nữ ca sĩ với chồng của cô vào thời điểm đó, [[Tommy Mottola]].<ref name="shapiro3">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=93–94}}</ref> Mottola luôn tham gia vào quá trình phát triển sự nghiệp của Carey bởi ông là người đứng đầu [[Sony Music Entertainment|Sony Music]], công ty mẹ của hãng đĩa. Kể từ thời điểm Carey ra mắt, Mottola đã kiểm soát gần như mọi khía cạnh trong sự nghiệp của cô, giữ cho âm nhạc của cô được điều chỉnh cẩn thận và nhấn mạnh rằng nữ ca sĩ sẽ tiếp tục thu âm những bản [[nhạc pop]] ôn hòa, mặc dù cô rất thích hip hop.<ref name="shapiro3" />
{{Quote box|width=28%|align=right|style=padding:8px|quote=Những gì tôi cố gắng làm là đưa một kiểu kết cấu vào rất nhiều bài hát, đại loại, giống như trong phần hát nền tôi đã làm một số việc nhất định và bạn biết đấy, tôi chỉ muốn sáng tạo hơn một chút với nó.|source=—Carey, trong một cuộc phỏng vấn với [[MTV]], nói về phong cách của cô trong ''Daydream''<ref name="nick5"/>
}}
Carey thú nhận rằng cô không bao giờ cố gắng thay đổi tình hình, bởi "[cô ấy] từng là một người bấp bênh và thận trọng, và vì vậy [cô ấy] sẽ lắng nghe những gì mọi người nói."<ref name="shapiro" /> Tuy nhiên, phương châm kiểm soát của Mottola đối với sự nghiệp nữ ca sĩ đã sớm "tràn vào đời sống cá nhân" của cả hai sau khi kết hôn, làm gia tăng xung đột giữa đôi bên.<ref name="shapiro3" /> Chẳng bao lâu, cuộc hôn nhân của họ rơi vào tình trạng hỗn loạn hơn bao giờ hết; như trong một bài báo trên ''[[Vanity Fair (tạp chí)|Vanity Fair]]'', "cặp đôi bắt đầu tranh cãi mà không hề có dự báo từ trước."<ref name="shapiro2" /> Carey đã tham gia vào dự án nhiều hơn cả những gì cô ấy từng thực hiện với bất kỳ album nào trước đó.<ref name="shapiro" /> "Tôi bước vào giaichu đoạnkỳ thu âm, thu âm, thu âm và thực hiện nó rất nhanh," cô nói với ''[[Time (tạp chí)|Time]]''. "Lần này, tôi có nhiều thời gian hơn, và tôi tập trung hơn vào những gì tôi muốn làm."<ref name="Time">{{chú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,134725,00.html|title=Pop's Princess Grows Up|last=Farley|first=Christopher John|work=[[Time (tạp chí)|Time]]|date=June 24, 2001|accessdate=October 21, 2010}}</ref> Khi sự nghiệp và công việc của Carey tiếp tục phản ánh quan điểm của cô về việc nó sẽ trở nên như thế nào, cuộc hôn nhân củagiữa cô với Mottola tiếp tục "xấu đi".<ref name="shapiro3" />
 
==Quá trình sáng tác==
Một trong những bài hát đầu tiên được thu âm cho album là "Fantasy". Trong lúc Carey bắt đầu phát triển những ý tưởng mới cho ''Daydream'', cô lập tức nghĩ đến bài hát "[[Genius of Love]]" của [[Tom Tom Club]].<ref name="nick2">{{harvnb|Nickson|1998|pp=140–141}}</ref> Nữ ca sĩ luôn là một người hâm mộ lớn của bản nhạc, và cô trình bày cho [[Dave Hall (nhà sản xuất thu âm)|Dave Hall]] về ý tưởng [[Sampling (âm nhạc)|sử dụng nhạc mẫu]] từ đoạn [[Hook (nhạc)|hook]] của nó.<ref name="nick2" /> Hall kết hợp một đường giai điệu mà ông cảm thấy phù hợp với giọng hát của Carey, trong khi cô sáng tác một số phần nhịp khác và viết lời. Carey cũng thu âm bản phối lại cho bài hát, bao gồm một đoạn hip-hop từ ODB của [[Wu-Tang Clan]], cũng như sự tham gia sản xuất đến từ [[Sean Combs|Puffy]].<ref name="nick2" /> Cô đề cập liên tục về bản phối và khen ngợi Puffy và ODB, "Anh ấy rất nổi tiếng trên đường phố, và là một trong những người giỏi nhất hiện có... chúng tôi đã làm những gì cả hai chúng tôi muốn làm và để ODB đưa nó sang một đẳng cấp khác. Anh ấy là sự lựa chọn hoàn hảo của tôi, vì vậy tôi thực sự hạnh phúc với cách nó diễn ra."<ref name="nick2" /> "One Sweet Day" là một bài hát được Carey viết cùng nhóm nhạc R&B [[Boyz II Men]]. Sau khi người bạn của Carey và cũng là cộng tác viên trong quá khứ [[David Cole (nhà sản xuất)|David Cole]] qua đời, nữ ca sĩ bắt đầu viết và phát triển một bài hát để bày tỏ lòng kính trọng đối với ông, tất cả bạn bè và người thân mà người hâm mộ của cô đã mất đi trong suốt hành trình của cuộc đời.<ref name="nick3">{{harvnb|Nickson|1998|pp=144}}</ref> Carey nhanh chóng soạn thảo nên phần điệp khúc và ý tưởng, và sau khi gặp Boyz II Men, nhóm nhận ra rằng chính mình cũng có suy nghĩ tương tự trong quá trình phát triển.<ref name="nick3" /> Họ cùng nhau sử dụng điệp khúc và ý tưởng của Carey, cũng như giai điệu họ sản xuất, để sáng tác nên bản nhạc. Nó được sản xuất bởi [[Walter Afanasieff]], người xây dựng giai điệu cho bài hát và thêm nhiều đường giai điệu lẫn nhịp điệu khác nhau.<ref name="nick3" />
 
Trong quá trình phát triển album, Carey bày tỏ sự quan tâm đến việc hợp tác với [[Jermaine Dupri]], người cô hâm mộ kể từ bài hát năm 1992 của ông, "[[Jump (bài hát của Kris Kross)|Jump]]".<ref name="nick4">{{harvnb|Nickson|1998|pp=145}}</ref> Ngay sau đó, Carey, Dupri và [[Manuel Seal]] bắt đầu sáng tác một bài hát cho album; Carey và Dupri sau đó trở thành bạn thân và cộng tác thường xuyên ở những dự án tiếp theo của cô trong tương lai. Khi Seal chơi piano, Carey bắt đầu ngân nga và chơi một số nốt nhất định, cho đến khi cô nghĩ ra phần điệp khúc cho "[[Always Be My Baby]]".<ref name="nick4" /> Sau khi phần còn lại của bài hát được sáng tác, Carey thu âm nó cùng với nhóm ca sĩ hát nền lâu năm [[Kelly Price]], Shanrae Price, và Melonie Daniels. Họ cùng nhau xây dựng "một bức tường giọng nền", trong đó cô sẽ bao phủ chúng với một vài nốt ngân bằng giọng ngực ở đoạn cuối.<ref name="nick4" /> Bài hát có nhịp điệu lạc quan, trong khi phần sáng tác của nó được mô tả là "một bản R&B tươi tắn và nhẹ nhàng", thể hiện một "sự quyến rũ và chậm rãi".<ref name="nick6">{{harvnb|Nickson|1998|pp=148}}</ref> "Underneath the Stars" là bài hát đầu tiên được thu âm cho ''Daydream''.<ref name="nick5">{{harvnb|Nickson|1998|pp=147}}</ref> Đây là một bản nhạc sở hữu "khuynh hướng nhạc soul thập niên 70" cũng như một số âm thanh sột soạt tổng hợp, để mang lại cho bài hát âm thanh đích thực của thập niên 70.<ref name="nick5" /> Carey cảm thấy những bổ sung trên là những bước đơn giản để thể hiện một đường giai điệu theo phong cách R&B đương đại. Ngoài ra, cô cảm thấy "Underneath the Stars" là một sự tri ân đối với phong cách của [[Minnie Riperton]], một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn nhất đến giọng hát của Carey khi lớntrưởng lênthành.<ref name="nick5" /> Bài hát có âm thanh nhẹ nhàng, với "nhiều kết cấu" và âm trầm, thể hiện khía cạnh sáng tạo hơn của Carey.<ref name="nick5" />
 
{{Quote box|width=34%|align=left|style=padding:8px|quote=[Underneath the Stars] đã mang đến cảm giác thực sự của thập niên 70, và thậm chí chúng tôi còn đưa những âm thanh sột soạt mà bạn thường nghe thấy ở các đĩa hát cũ để mang đến cho nó huơng vị như vậy. [Đó] là một cách hay để bắt đầu, bởi vì nó khiến tôi bắt đầu làm một album mang nhiều tính R&B hơn theo khuynh hướng của thời đại Minnie Ripperton, vốn luôn là nguồn cảm hứng lớn cho tôi.|source=—Carey, về quá trình sáng tác và nguồn cảm hứng đằng sau "Underneath the Stars".<ref name="nick5"/>
Dòng 59:
Đối với album, Carey hát lại bài hát năm 1982 của [[Journey (ban nhạc)|Journey]] "[[Open Arms (bài hát của Journey)|Open Arms]]". Nó là sự lựa chọn cá nhân của Carey, cũng như xuất phát từ ý tưởng của chính cô.<ref name="nick5" /> Cùng với Afanasieff, họ đơn giản hóa phần sắp xếp của bài hát, khiến nó trở nên hơi bóng bẩy, đặc biệt nếu so với "One Sweet Day" vốn "thô mộc và mạnh mẽ".<ref name="nick5" /> Ngoài ra, với sự giúp đỡ của những ca sĩ hát nền, Carey còn kết hợp một chút yếu tố của [[Nhạc phúc âm|phúc âm]] vào bài hát.<ref name="nick5" /> Một trong những tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của phúc âm hơn trong ''Daydream'' là "I Am Free".<ref name="nick6" /> Nó được tạo nên bởi Carey, Afanasieff và [[Loris Holland]], người trước đó cũng hợp tác với nữ ca sĩ trong ''[[Merry Christmas (album của Mariah Carey)|Merry Christmas]]'' (1994).<ref name="nick6" /> Carey bắt đầu ngân nga giai điệu với lời bài hát được cô viết sẵn, trong khi Holland chơi [[Organ (âm nhạc)|đàn organ]] và Afanasieff tham gia vào khâu [[Programming (âm nhạc)|lập trình]],<ref name="nick6" /> tạo cho bài hát một cảm giác phúc âm chân thực và không gượng ép. Phần điệp khúc rất tinh tế và tự nhiên, với mỗi câu hát "nối tiếp nhau", điều có lẽ sẽ khó khăn với một "giọng ca kém chuyên môn".<ref name="nick6" /> Carey bắt đầu rời xa "những bản ballad tiêu chuẩn của [[Celine Dion]]" và hướng đến những bản nhạc R&B. Tuy nhiên, cô sẽ không từ bỏ hoàn toàn loại hình âm nhạc đã làm nên sự nổi tiếng của mình.<ref name="nick6" /> Xuất phát từ lý do đó, Carey viết "When I Saw You" với Afanasieff, một bài hát thực sự lột tả phong cách âm nhạc quen thuộc trong một số tác phẩm trước đây của cô, cũng như thể hiện giọng hát nội lực của nữ ca sĩ.<ref name="nick6" /> Trở lại lãnh địa R&B của mình, Carey thu âm "Long Ago", bản nhạc thứ hai cô đồng sáng tác với Dupri và Seal, với nền nhạc hip hop mạnh mẽ và giọng hát của Carey được mô tả như "lả lướt trên một dải trầm chắc chắn như lụa."<ref name="nick6" />
 
"Melt Away" là bài hát do Carey tự sản xuất và đồng viết lời với [[Babyface (nhạc sĩ)|Babyface]].<ref name="nick7">{{harvnb|Nickson|1998|pp=149}}</ref> Quá trời viết lời và sản xuất nó được đánh giá là "tráng lệ" với mỗi câu hát như được bay lượn ở phần điệp khúc.<ref name="nick7" /> Theo Chris Nickson, "Underneath the Stars" đem lại cảm giác "mạnh mẽ như bất kỳ bản nhạc chậm nào được phát hành vào những năm 90, và là thứ có thể tìm thấy nhiều dư vị vào đêm khuya với các vũ công."<ref name="nick7" /> Một bài hát khác gợi nhắc về những thập niên trong quá khứ là "[[Forever (bài hát của Mariah Carey)|Forever]]", với sự hoài cổ được thể hiện thông qua những thay đổi trong hợp âm và theo cách ghi ta rải hợp âm "phía trước phần âm nhạc."<ref name="nick7" /> Bài hát thể hiện giọng hát tinh tế từ Carey, cũng như sự phong phú không thể phủ nhận.<ref name="nick7" /> "Daydream Interlude (Sweet Fantasy Dub Mix)" là một trong những bản nhạc sống động nhất của album. Nó là bản phối lại theo phong cách club của "Fantasy", được điều chỉnh và hòa âm lại bởi nhà sản xuất [[nhạc house]] nổi tiếng [[David Morales]].<ref name="nick7" /> Bài hát được định hướng là một bản nhạc cho những câu lạc bộ khiêu vũ, tiếp tục mở rộng "chân trời âm nhạc" của Carey.<ref name="nick7" /> Bài hát kết hợp giọng hát của Carey và thêm nó vào phần giai điệu house rộn ràng, điều ông sẽ tiếp tục thực hiện cho nhiều đĩa đơn trong tương lai của nữ ca sĩ.<ref name="nick7" /> "Looking In" là bài nhạc cuối cùng trong ''Daydream''. Được viết trong 15 phút,<ref>{{chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/1638306/mariah-carey-slings-hits-rarities-at-mlb-central-park-charity-concert |title=Mariah Carey Slings Hits, Rarities at MLB Central Park Charity Concert |last=Hampp |first=Andrew |date=July 14, 2013 |access-date=May 16, 2017 |website=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]}}</ref> đây là bài hát cá nhân nhất của Carey vào thời điểm đó, với nội dung đề cập đến những liên tưởng của cô về việc để mình xuất hiện "khỏa thân" và "trần trụi"; nó được viết bởi Carey và Afanasieff.<ref>{{chú thích web |url=http://www.allmusic.com/album/daydream-mw0000179794/ |title=All Music Overview |last= |first= |date= |website=[[AllMusic]] |access-date=May 23, 2016}}</ref><ref name="nick8">{{harvnb|Nickson|1998|pp=150}}</ref>
 
==Quảng bá==
Dòng 74:
Sáu đĩa đơn đã được phát hành từ ''Daydream''. "Fantasy" được chọn làm đĩa đơn mở đường cho album vào ngày 12 tháng 9 năm 1995. Nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]], giúp Carey trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên và là nghệ sĩ thứ hai đạt được thành tích này.<ref name="Allmusic2">{{chú thích web |title = Mariah Carey > Biography|last=Ankeny|first=Jason|website =AllMusic |url={{Allmusic|class=artist|id=p62404/biography|pure_url=yes}}|accessdate=April 6, 2009}}</ref> "Fantasy" tiếp tục đứng đầu trong tám tuần liên tiếp, và trở thành đĩa đơn bán chạy thứ hai của năm 1995 ở Hoa Kỳ với 1.5 triệu bản.<ref name="bbdcharts">{{chú thích web|url=https://books.google.com/books?id=3g4EAAAAMBAJ&pg=PA56|title=Best-Selling Records of 1995|last=Christman|first=Ed|work=Billboard|date=January 26, 1996|accessdate=October 20, 2010}}</ref> Trên thị trường quốc tế, bài hát đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Canada và New Zealand, đồng thời lọt vào top 5 ở Bỉ, Phần Lan, Pháp và Vương quốc Anh.<ref name="nick2" /><ref name="ultrafantasy">{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/en/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Fantasy&cat=s|title=Mariah Carey – Fantasy|language=Đức|work=[[Ultratop]]|publisher=Hung Medien|accessdate=October 20, 2010|deadurl=yes|archiveurl=https://www.webcitation.org/6AmdjCvDc?url=http://www.ultratop.be/en/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Fantasy&cat=s|archivedate=September 19, 2012}}</ref> Đĩa đơn tiếp theo, "[[One Sweet Day]]" cũng đạt được thành công tương tự, một lần nữa đứng đầu bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên và nắm giữ kỷ lục suốt 23 năm cho [[Kỷ lục của bảng xếp hạng Billboard Hot 100|đĩa đơn quán quân lâu nhất trong lịch sử ''Billboard'' Hot 100]] với 16 tuần liên tiếp.<ref name="Allmusic2" /> Nó còn đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada và New Zealand, và đạt thứ hạng trong top 5 ở Úc, Pháp, Ireland và Hà Lan.<ref>{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/en/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey+%26+Boyz+II+Men&titel=One+Sweet+Day&cat=s|title=Mariah Carey – Fantasy|work=Ultratop|publisher=Hung Medien|accessdate=October 20, 2010}}</ref> Được phát hành làm đĩa đơn thứ ba của ''Daydream'' ở một số quốc gia châu Âu, "[[Open Arms (bài hát của Journey)#Phiên bản của Mariah Carey|Open Arms]]" tiếp nhận thành công ở Vương quốc Anh, Ireland và New Zealand, nơi nó lần lượt xếp hạng 4, 7 và 8.<ref name="uk">{{chú thích web|url=http://www.theofficialcharts.com/artist/_/mariah%20carey/|title=Mariah Carey Singles Discography|publisher=[[The Official Charts Company]]|accessdate=September 17, 2010}}</ref><ref name="scapolo">{{chú thích báo |last= Scapolo |first= Dean |author2= |title= The Complete New Zealand Music Charts 1966–2006 |publisher= |year= 2007 }}</ref> Tuy nhiên, "Open Arms" không đạt được thứ hạng cao ở những quốc gia châu Âu khác, như Bỉ, Pháp và Đức, nơi nó nằm ngoài top 30.<ref name="fra">{{chú thích web|url=http://lescharts.com/showinterpret.asp?interpret=Mariah+Carey|title=lescharts.com – Discographie Mariah Carey |language=Pháp |publisher=lescharts.com |accessdate=August 31, 2010}}</ref><ref name="ger">{{chú thích web|url=http://musicline.de/de/chartverfolgung_summary/artist/Carey%2CMariah/single?sort=entry|title=Chartverfolgung/Carey, Mariah/Single|language=Đức|publisher=musicline.de PhonoNet|accessdate=January 21, 2010}}</ref>
 
"[[Always Be My Baby]]" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ tư, và không thể tiếp nối thành tích tuần đầu của hai đĩa đơn đầumở đường khi ra mắt ở vị trí thứ hai trên ''Billboard'' Hot 100 (một thành tích cô sẽ táithiết lập với "[[Honey (bài hát của Mariah Carey)|Honey]]" vào năm 1997).<ref name="nick4" /> Bài hát sau đó đứng đầu bảng xếp hạng trong hai tuần, cũng như giữ vững vị trí thứ hai trong chín tuần.<ref name="nick4" /> "Always Be My Baby" cũng hoạt động vừa phải ở nhiều thị trường lớn, lọt vào top 5 ở Canada, New Zealand và Vương quốc Anh, nhưng nằm ngoài top 10 ở những nơi khác.<ref>{{chú thích web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/rpm/028020-119.01-e.php?&file_num=nlc008388.2976&type=1&interval=50&PHPSESSID=4dp17sl7hp9qmhhj3vmcenr836|title=Top Singles – Volume 63, No. 14, May 20, 1996|work=[[RPM (tạp chí)|RPM]]|date=May 20, 1996|accessdate=September 13, 2010}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/en/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Always+Be+My+Baby&cat=s|title=Mariah Carey – Always Be My Baby|language=Đức|work=Ultratop|publisher=Hung Medien|accessdate=October 20, 2010}}</ref> "[[Forever (bài hát của Mariah Carey)|Forever]]" được chọn làm đĩa đơn thứ năm từ ''Daydream'', mặc dù không đủ điều kiện để lọt vào Hot 100, nhưng vươn đến top 10 trên bảng xếp hạng sóng phát thanh ở Hoa Kỳ.<ref name="nick5" /> Nó đạt được thành tích tốt ở Canada với vị trí thứ 13. "[[Underneath the Stars (bài hát)|Underneath the Stars]]", đĩa đơn thứ sáu và cuối cùng của album, được Carey mô tả như là một trong những bài hát yêu thích nhất trong sự nghiệp của cô, chỉ nhận được một số lượng ấn phẩm hạn chế ở Hoa Kỳ, nơi nó xếp hạng thấp trên ''Billboard'' [[Hot R&B/Hip-Hop Songs]].<ref name="nick6" />
 
==Đánh giá chuyên môn==
Dòng 92:
}}
 
''Daydream'' nhận được sự hoan nghênh rộng rãi từ các nhà phê bình âm nhạc. [[Stephen Holden]] của ''[[The New York Times]]'' viết rằng khả năng sáng tác của Carey đã được cải thiện đáng kể, "trở nên thoải mái hơn, quyến rũ hơn và ít dựa vào những câu hát sáorập rỗngkhuôn". "One Sweet Day", "Melt Away", "Always Be My Baby" và "Underneath the Stars" được chỉ ra như là những điểm nhấn, trong khi "Fantasy" có phần nội dung theo Holden mô tả là "một trong số những bản hợp xướng cuồng nhiệt nhất được tìm thấy trong một album đương đại".<ref name="nytimes">{{chú thích web|url=https://www.nytimes.com/1995/10/08/arts/pop-music-mariah-carey-glides-into-new-territory.html|title=Pop Music; Mariah Carey Glides Into New Territory|last=Holden|first=Stephen|work=[[The New York Times]]|date=October 8, 1995|accessdate=October 20, 2010}}</ref> Nhà báo Cheo H. Coker của ''[[Los Angeles Times]]'' cho biết ''Daydream'' sở hữu nguồn tài nguyên có thể khiến các nhà chuyên môn từng phê bình Carey trước đây phải im lặng—đặc biệt là "Fantasy" và "Underneath the Stars"—và đem đến "một điều gì đó cho tất cả mọi người trong khi bằng cách nào đó vẫn đúng với bản chất của cô ấy".<ref name="latimes">{{chú thích web|last=Coker|first=Cheo H.|date=October 1, 1995|url=http://articles.latimes.com/1995-10-01/entertainment/ca-51919_1_mariah-carey|title=Carey's 'Daydream' Has the Goods to Silence Detractors|work=[[Los Angeles Times]]|accessdate=September 17, 2016}}</ref> Tạp chí ''[[People (tạp chí)|People]]'' coi đây là album hay nhất của Carey, vốn hưởng lợi từ những bản nhạc "vui nhộn hơn và nhẹ nhàng hơn" với khả năng kiểm soát giọng hát của nữ ca sĩ được cải thiện, "chứng tỏ sự tuyệt vời về mặt nội lực lẫn tính linh hoạt".<ref name="ppl">{{chú thích web|url=http://www.people.com/people/archive/article/0,,20101804,00.html|title=Picks and Pans Main: Song|work=[[People (tạp chí)|People]]|date=October 16, 1995|accessdate=October 20, 2010}}</ref> Theo tác giả [[Colin Larkin (tác giả)|Colin Larkin]] của ''[[Encyclopedia of Popular Music]]'', "một số nhà phê bình đặt câu hỏi liệu ''Daydream'' có phải là một bài tập có kiểm soát trong việc viết nên một công thức trống rỗng, với ít cảm xúc từ trái tim hay không."<ref name="Larkin"/> Đánh giá album cho ''[[Entertainment Weekly]]'', [[Ken Tucker]] ưa thích "những giai điệu ít trang nghiêm hơn"—đặc biệt là "Daydream Interlude (Fantasy Sweet Dub Mix)"—so với "tượng đài của những trải nghiệm bềnquen bỉthuộc" trong "When I Saw You" và "I Am Free", được anhông cho là những bản ballad quá sức. Tucker dù sao cũng gọi đây là album hay nhất của Carey kể từ khi lần đầu ra mắt với [[Mariah Carey (album)|album mang chính tên cô]] năm 1990.<ref name="ew" />
 
Trong một bài đánh giá hồi tưởng cho [[AllMusic]], [[Stephen Thomas Erlewine]] gọi ''Daydream'' là "bản thu âm hay nhất của Carey cho đến nay, bao gồm khâu lựa chọn bài hát nhất quán và một màn thể hiện đáng kinh ngạc của cô." Theo quan điểm của Erlewine, album thu hút cả khán giả [[urban contemporary|R&B thành thị]] và [[adult contemporary|đương đại trưởng thành]] khi cho rằng "Carey tiếp tục hoàn thiện kỹ năng của mình và cô ấy đã giành được vị thế là một nữ danh ca R&B/pop."<ref name="allmusic" /> Trong ''[[The Rolling Stone Album Guide]]'' (2004), Arion Berger nói rằng album "tuân thủ công thức của những nữ danh ca kinh điển trên sóng phát thanh, xen kẽ các giai điệu dance sôi động với những bản ballad quy mô lớn". AnhÔng nhấn mạnh những bản nhạc do Afanasieff đóng góp trong khi than thở về bản hát lại "Open Arms" của Carey.<ref name="Berger"/> Vào tháng 7 năm 2017, nó xếp ở vị trí 97 trong danh sách 150 album hay nhất mọi thời đại của nghệ sĩ nữ bởi [[National Public Radio]].<ref>{{chú thích web|url=https://www.npr.org/2017/07/20/538370881/turning-the-tables-150-greatest-albums-made-by-women-page-6|title=The 150 Greatest Albums Made By Women|work=[[National Public Radio]]|first=Audie|last=Cornish|date=July 24, 2017|accessdate=September 4, 2017}}</ref>
 
===Thành tựu===
Dòng 111:
 
==Diễn biến thương mại==
''Daydream'' ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với 224.000 bản được bán ra, giữ vị trí đầu bảng vào tuần tiếp theo với 216.000 bản, và tiếp tục dẫn đầu trong tuần thứ ba liên tiếp với lượng tiêu thụ đạt 170.000 bản. Nó đạtvươn đượcđến đỉnh điểm về mặt doanh thu trong những tuần tiếp theo của kỳ nghỉ lễ, với mức độ bán ra ở mức cao nhất trong những tuần cuối cùng của năm với 486.000 và 760.000 bản.<ref name="sales224">{{chú thích tạp chí|url=https://books.google.com/books?id=YQ0EAAAAMBAJ&pg=PA55|title=Attack Of The Divas, Part One:|last=Mayfield|first=Geoff|work=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|publisher=[[Nielsen Company|Nielsen Business Media]]|volume=114|issue=51|page=55|issn=0006-2510|date=December 21, 2002|accessdate=October 20, 2010}}</ref> Album bán được 760.000 bản trong tuần lễ Giáng sinh năm 1995, doanh số tuần cao nhất của một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ.<ref name="sales224" /> Nó cũng đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng ''Billboard'' [[Top R&B/Hip-Hop Albums]]. ''Daydream'' trở thành album bán chạy thứ hai trong năm 1996, và là album bán chạy thứ mười tám của thập niên 1990 ở Hoa Kỳ.<ref name="sales1996">{{chú thích tạp chí|title=The Year in Music - Top Billboard 200 Albums|work=Billboard|volume=108|issue=52|date=December 28, 1996|issn=0006-2510|url=https://books.google.com/books?id=sQkEAAAAMBAJ&dq=billboard&q=One+Sweet+Day#v=snippet&q=Daydream&f=false|accessdate=April 2, 2011|author1=Nielsen Business Media|first1=Inc}}</ref><ref name="1990sbb" /> Nó cũng trở thành album bán chạy nhất của Carey tại đây, được chứng nhận Kim cương bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ]] (RIAA), với lượng đĩa xuất xưởng cán mốc mười triệu bản.<ref name="RIAA"/><ref name="MTV News">{{chú thích web|title=Metallica, Boyz II Men, Backstreet Boys, Green Day, No Doubt Among Top-Selling Artists Honored At Diamond Awards|url=http://www.mtv.com/news/articles/1425228/19990317/backstreet_boys.jhtml|publisher=[[MTV News]]|date=March 17, 1999|accessdate=April 6, 2009}}</ref>
 
Tại Canada, ''Daydream'' đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng và được chứng nhận bảy đĩa Bạch kim bởi [[Music Canada|Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada]] (CRIA).<ref name="canada">{{Chú thích web|url=http://www.cria.ca/cert_db_search.php |title=CRIA: Certification Results – Mariah Carey |publisher=Canadian Recording Industry Association |accessdate=August 19, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20090412081617/http://www.cria.ca/cert_db_search.php |archivedate=April 12, 2009 }}</ref> Album cũng tiếp nhận những thành công vượt trội ở châu Âu, đạt vị trí số một ở Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh.<ref name="mcultra">{{chú thích web|url=http://www.ultratop.be/en/showitem.asp?interpret=Mariah+Carey&titel=Daydream&cat=a|title=Mariah Carey: Daydream|language=Đức|work=[[Ultratop]]|publisher=Hung Medien|accessdate=August 20, 2010}}</ref> Tại Pháp, ''Daydream'' vuơn đến vị trí thứ hai và được chứng nhận Bạch kim kép bởi [[Syndicat national de l'édition phonographique]] (SNEP),<ref name="france">{{chú thích web|url=http://www.disqueenfrance.com/fr/page-259165.xml?year=1996&type=6 |title=Certifications Singles Argent – année 1996 |language=Pháp |publisher=Syndicat National de l'Édition Phonographique |accessdate=June 29, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20120309184049/http://www.disqueenfrance.com/fr/page-259165.xml?year=1996&type=6 |archivedate=March 9, 2012 }}</ref> với doanh thu ước tính là 800.000 bản.<ref name="info2plat">{{chú thích web|url=http://www.infodisc.fr/CDCertif_P2.php |title=The Double Platinum Albums: |language=Pháp |publisher=InfoDisc.fr |accessdate=October 20, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150628234808/http://www.infodisc.fr/CDCertif_P2.php |archivedate=June 28, 2015 }}</ref> ''Daydream'' được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi [[Liên đoàn Công nghiệp thu âm quốc tế]] (IFPI), công nhận ba triệu bản được bán ra trên khắp châu Âu vào năm 1996.<ref name="europe">{{chú thích web|url=http://www.ifpi.com/content/section_news/plat1996.html|title=IFPI Platinum Europe Awards|accessdate=September 13, 2010|deadurl=yes|archiveurl=https://archive.today/20121205011105/http://www.ifpi.com/content/section_news/plat1996.html|publisher=International Federation of the Phonographic Industry|archivedate=December 5, 2012}}</ref>
 
Tại Úc, ''Daydream'' được chứng nhận Bạch kim năm lần bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc]] (ARIA), với số lượng tiêu thụ 350.000 bản.<ref name=ryan/> Album đứng thứ chín trên bảng xếp hạng cuối năm của ARIA trong cả hai năm 1995 và 1996.<ref name="aria1995">{{chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-50albums-1995.htm |title=ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Albums 1995 |work=[[ARIA Charts]] |publisher=[[Australian Recording Industry Association]] |accessdate=October 20, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20110528193142/http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-50albums-1995.htm |archivedate=May 28, 2011 }}</ref><ref name="aria1996">{{chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-50albums-1996.htm |title=ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Albums 1996 |work=ARIA Charts |publisher=Australian Recording Industry Association |accessdate=October 20, 2010 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20160305091948/http://aria.com.au/pages/aria-charts-end-of-year-charts-top-50albums-1996.htm |archivedate=March 5, 2016 }}</ref> Tại Nhật Bản, album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Oricon]].<ref name="jap">{{chú thích web|url=http://www.oricon.co.jp/prof/artist/163336/ranking/cd_album/|title=Profile of Mariah Carey|language=Nhật|publisher=[[Oricon]]|accessdate=September 21, 2010}}</ref> Ngoài ra, ''Daydream'' còn lọt vào top 5 trong danh sách những album bán chạy nhất tại đây bởi một nghệ sĩ không phải gốc Á, với 2.2 triệu bản được bán ra.<ref name="daydreamjapan"/><ref name="OACB">{{chú thích báo |url=https://books.google.com/books?id=7g4EAAAAMBAJ&lpg=PA68&dq=mariah%20carey%20japanese&pg=PA86#v=onepage&q=mariah%20carey%20japanese&f=false|title=Carey's Ubiquitous Japanese Success (Page 86)|publisher=Billboard|accessdate=August 6, 2010|date=January 27, 1996}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=https://archive.org/details/bub_gb_yg0EAAAAMBAJ|page=[https://archive.org/details/bub_gb_yg0EAAAAMBAJ/page/n48 49]|quote=bodyguard top foreign album.|title=Mariah Carey "#1's"|work=Billboard|publisher=[[Recording Industry Association of Japan]]|accessdate=August 12, 2010|date=January 23, 1999}}</ref> Tính đến nay, nó vẫn là một trong [[Danh sách album bán chạy nhất thế giới|những album bán chạy nhất mọi thời đại]], với doanh số hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới.<ref>{{chú thích web|last1=Wright|first1=Matthew|title=How well do you know the lyrics to Mariah Carey's 'Daydream'?|url=http://ew.com/article/2015/10/01/lyrics-mariah-carey-daydream/|website=Entertainment Weekly|accessdate=November 6, 2017|date=October 1, 2015}}</ref>
Dòng 124:
}}
 
''Daydream'' đã được chứng minh là một trong những album bán chạy nhất và được hoan nghênh nhất năm 1995.<ref name="nick13">{{harvnb|Nickson|1998|pp=152}}</ref> Khi các đề cử [[giải Grammy]] được công bố, nó nhận được đề cử cho sáu hạng mục khác nhau, bao gồm [[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]] và [[Giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất|Album giọng pop xuất sắc nhất]] cho album, [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất]] cho "Fantasy", [[Giải Grammy cho Thu âm của năm|Thu âm của năm]] và [[Giải Grammy cho Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất|Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất]] cho "One Sweet Day", và [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất]] cho "Always Be My Baby". Nhiều nhà phê bình bắt đầu nhận định rằngvề cách ''Daydream'' sẽ "càn quét" lễ trao giải như thế nào trong năm đó.<ref name="nick10" /> [[Giải Grammy lần thứ 38]] được tổ chức vào ngày 28 tháng 2 năm 1996 tại [[Shrine Auditorium]] ở Los Angeles. Carey, với tư cách của một trong những nghệ sĩ được đề cử nhiều giải thưởng nhất, là một trong những tên tuổi trình diễn hàng đầu trong buổi lễ.<ref name="nick13" /> Cùng với [[Boyz II Men]], cô biểu diễn "One Sweet Day" trực tiếp và nhận được nhiều lời tán dương.<ref name="shapiro5">{{harvnb|Shapiro|2001|pp=98}}</ref> Tuy nhiên, khi những người chiến thắng giải thưởng lần lượt được công bố, Carey phải chứng kiến việc tên mình không được xướng lên dù chỉ một lần.<ref name="nick13" /> ''Daydream'' thất bại trong tất cả sáu đề cử, một kết quả gây sốc cho hầu hết các nhà phê bình, những người đã gọi nó là "album của năm".<ref name="shapiro5" /> Với mỗi lần không chiến thắng trôi qua, máy quay truyền hình tiếp tục cận cảnh khuôn mặt của Carey, người cố gắng giữ nụ cười một cách khó khăn.<ref name="shapiro5" /> Đến cuối đêm, Carey vẫn không giành được một giải thưởng nào, với vẻ thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt nữ ca sĩ.<ref name="shapiro5" /> Carey sẽ không trở lại giải Grammy để biểu diễn cho đến lễ trao giải năm 2006, khi cô được đề cử tám giải (và thắng ba) cho album phòng thu thứ mười ''[[The Emancipation of Mimi]]'' (2005).<ref>{{chú thích web|url=http://www.grammy.com/GRAMMY_Awards/49th_Show/list.aspx|archive-url=http://webarchive.loc.gov/all/20061220160454/http://www.grammy.com/GRAMMY_Awards/49th_Show/list.aspx|deadurl=yes|archive-date=December 20, 2006|title=Complete list of Grammy Award nominations and winners|publisher=[[National Academy of Recording Arts and Sciences]]|accessdate=June 25, 2007}}</ref>
 
==Thành phần thực hiện==
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của ''Daydream'', [[Columbia Records]].<ref name="Booklet">{{chú thích ghi chú album |title=Daydream (Liner Notes) |others=Mariah Carey |year=1995 |first=Mariah |last=Carey |authorlink=Mariah Carey |type=Compact Disc |publisher=Columbia Records |location=New York City, New York }}</ref>
 
{{div col|colwidth=35em}}
* [[Mariah Carey]] – giọng hát, viết lời, sản xuất, cải biên, hát nền
* [[Walter Afanasieff]] – viết lời, sản xuất, cải biên, lập trình, synthesizer, bass, đàn phím, lập trình trống
* [[Babyface (nhạc sĩ)|Babyface]] – đàn phím, giọng nền
* [[Michael McCary]] – viết lời, giọng hát
* [[Nathan Morris]] – viết lời, giọng hát
* [[Wanya Morris]] – viết lời, giọng hát
* [[Shawn Stockman]] – viết lời, giọng hát
* [[Manuel Seal]] – piano, viết lời
* Tristan Avakian – guitar
* Melonie Daniels – hát nền
* [[Jermaine Dupri]] – sản xuất, cải biên, giọng dẫn và phụ
* [[Mick Guzauski]] – phối khí
* [[Dave Hall (nhà sản xuất thu âm)|Dave Hall]] – sản xuất, cải biên, lập trình
* Jay Healy – kỹ sư âm nhạc, phối khí
* Loris Holland – organ, đàn hammond
* [[Dann Huff]] – guitar
* Kurt Lundvall – kỹ sư âm nhạc
* [[David Morales]] – bass, cải biên, đàn phím, sản xuất
* [[Kelly Price]] – hát nền
* Shanrae Price – hát nền
 
'''Sản xuất'''
* [[Mike Scott (nhạc sĩ)|Mike Scott]] – kỹ sư âm nhạc
* [[Manuel Seal]] – sản xuất, giọng dẫn và phụ
* [[Dan Shea (nhà sản xuất thu âm)|Dan Shea]] – synthesizer, bass, đàn phím, lập trình, moog synthesizer, lập trình trống, synthesizer bass
* [[Andrew Smith (nhạc sĩ)|Andy Smith]] – kỹ sư âm nhạc
* David Sussman – kỹ sư âm nhạc, phối khí
* [[Phil Tan]] – kỹ sư âm nhạc
* Steve Thornton – bộ gõ
* Dana Jon Chappelle – kỹ sư âm nhạc
* [[Terry Burrus]] – piano
* [[Satoshi Tomiie]] – bass, đàn phím, lập trình, synthesizer bass
* [[Brian Vibberts]] – kỹ sư âm nhạc
* Gary Cirimelli – lập trình, lập trình kỹ thuật số
* [[Stretch (rapper)|Randy Walker]] – lập trình
* Acar Key – kỹ sư âm nhạc
* Frank Filipetti – kỹ sư âm nhạc
* Mark Krieg – kỹ sư âm nhạc thứ hai
* Kirk Yano – kỹ sư âm nhạc hỗ trợ
* Mick Guzauski – phối khí
{{div col end}}
 
==Danh sách bài hát==